Chào Luật sư, Luật sư có thể cho tôi biết thêm thông tin về trợ cấp và các biện pháp đối kháng trong thương mại quốc tế quy định như thế nào?. Tôi xin chân thành cảm ơn luật sư rất nhiều vì đã trả lời câu hỏi của tôi.
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Khi gia nhập WTO; tổ chức thương mại thế giới một trong các điều khoản mà bạn phải ký kết và tuân thủ đó chính là quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng. Vậy theo quy định của tổ chức thương mại thế giới WTO thì trợ cấp và các biện pháp đối kháng trong thương mại quốc tế quy định như thế nào? Đây là câu hỏi thắc mắc mà các quốc gia khi muốn tham gia tổ chức này đặt ra.
Để có thể cung cấp cho bạn thông tin về việc quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng trong thương mại quốc tế quy định như thế nào?. LuatsuX mời bạn tham khảo bài viết dưới đây của chúng tôi.
Căn cứ pháp lý
Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1995
Hiệp định chung về dịch vụ thương mại GATS
Thỏa thuận 248/WTO/VB ghi nhận các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp dân sự (DSU)
Hiệp định 217/WTO/VB trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM)
Thương mại quốc tế là gì?
Theo Luật mẫu về Trọng tài thương mại của Uỷ ban Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL): Thương mại được hiểu là những vấn đề phát sinh từ mối quan hệ thương mại theo hợp đồng hoặc không theo hợp đồng bao gồm: giao dịch thương mại về việc cung cấp hay trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận về phân phối; đại diện thương mại; hóa đơn chứng từ; bán; cho thuê; xây dựng nhà máy; dịch vụ tư vấn đề án thiết kế; tổng hợp giấy phép đầu tư giao dịch ngân hàng; bảo hiểm; vận chuyển hàng hóa hay hành khách bằng đường bộ; đường không; đường biển; đường sắt.
Theo BTA: Thương mại là quan hệ thương mại bao gồm các quan hệ phát sinh từ việc mua bán cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích sinh lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội.
Như vậy thương mại quốc tế là các quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài bao gồm các quan hệ phát sinh từ việc mua bán cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích sinh lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội.
Quy định về thương mại quốc tế tại Việt Nam
Theo quy định tại Điều 5 Luật Thương mại 2005 quy định về áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế như sau:
– Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
– Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 663 BLTTDS quy định về xác định yếu tố nước ngoài như sau:
– Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.
Trợ cấp và các biện pháp đối kháng trong thương mại quốc tế quy định như thế nào?
Trợ cấp là gì?
Trợ cấp là gì trong WTO trợ cấp được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước hoặc một tổ chức công (Trung ương hoặc địa phương) dưới một trong các hình thức sau mang lại lợi ích cho doanh nghiệp/ ngành sản xuất:
- Hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay; (ví dụ cấp vốn; cho vay; góp cổ phần) hoặc hứa chuyển (ví dụ bảo lãnh cho các khoản vay);
- Miễn hoặc cho qua một khoảng thu lẻ ra phải đóng; (ví dụ ưu đãi thuế; tín dụng)
- Mua hàng cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hóa (trừ cơ sở hạ tầng chung)
- Thanh toán tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư nhân tiến hành các hoạt động nêu trên theo cách thức mà Chính phủ vẫn làm.
Các khoản hỗ trợ này được hiểu là mang lại lợi ích cho đối tượng được hưởng hỗ trợ. Nếu nó được thực hiện theo cách mà một nhà đầu tư tư nhân một ngân hàng thương mại Bình thường sẽ không khi nào làm như vậy (vì đi ngược lại những tính toán thương mại thông thường).
Có những loại trợ cấp nào và cơ chế áp dụng: có 3 loại trợ cấp với quy chế áp dụng khác nhau.
– Thứ nhất cấp bị cấm (trợ cấp đèn đỏ):
- Trợ cấp xuất khẩu: Trợ cấp căn cứ vào kết quả xuất khẩu: ví dụ hưởng xuất khẩu được cấp nguyên liệu đầu vào để xuất khẩu miễn thuế giảm thuế cao hơn mức mà sản phẩm tương ứng bán trong nước được hưởng ưu đãi bảo hiểm xuất khẩu ưu đãi tín dụng xuất khẩu hoặc
- Trợ cấp nhằm ưu tiên sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu.
Đây là những hình thức trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm áp dụng.
– Thứ hai là trợ cấp không khiếu kiện (trợ cấp đèn xanh):
- Trợ cấp không các biệt không cá biệt tức là các loại trợ cấp không hướng tới một nhóm doanh nghiệp ngành khu vực địa lý nào tiêu chí để hưởng trợ cấp là khách quan không cho cơ quan có thẩm quyền cấp khả năng tùy tiện xem xét và không tạo ra hệ quả ưu đãi Riêng đối với bất kỳ đối tượng nào hoặc.
- Các trợ cấp sau: Dù các việc hay không cá biệt:
- Các trợ cấp cho hoạt động nghiên cứu cho các công ty tổ chức nghiên cứu tiến hành với một số điều kiện về loại trợ cấp và mức trợ cấp cụ thể;
- Trợ cấp cho các khu vực khó khăn với các tiêu chí xác định cụ thể về thu nhập bình quân hoặc tỷ lệ thất nghiệp;
- Trợ cấp để hỗ trợ điều chỉnh các điều kiện sản phẩm cho phù hợp với môi trường kinh doanh mới.
Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức này mà không bị các thành viên khác khiếu kiện tức là loại trợ cấp được cấp phép vô điều kiện.
– Thứ ba, trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (hay còn gọi là trợ cấp đèn vàng): Bao gồm tất cả các loại phụ cấp có tính cá biệt trừ loại trợ cấp đèn xanh các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức trở cách này nhưng nếu gây thiệt hại cho nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước thành viên khác thì có thể bị kiện ra WTO.
Biện pháp đối kháng là gì?
Các thành viên sẽ thực hiện những biện pháp cần thiết để bảo đảm rằng việc đánh thuế đối kháng với bất kỳ sản phẩm nào của bất kỳ Thành viên nào nhập khẩu vào lãnh thổ của một Thành viên khác phù hợp với các quy định của Điều VI Hiệp định GATT 1994 và phù hợp với các các quy định của Hiệp định này. Các loại thuế đối kháng chỉ được áp dụng căn cứ trên cơ sở điều tra đã được khởi tố và thực hiện phù hợp với các quy định của Hiệp định này và Hiệp định về nông nghiệp.
Điều VI Hiệp định GATT 1994 quy định về Thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng như sau:
– Các bên ký kết nhận thấy rằng bán phá giá, tức là việc sản phẩm của một nước được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của sản phẩm, phải bị xử phạt nếu việc đó gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết hay thực sự làm chậm chễ sự thành lập một ngành sản xuất trong nước. Nhằm vận dụng điều khoản này, một sản phẩm được đưa vào kinh doanh thương mại trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của hàng hoá đó nếu giá xuất khẩu của sản phẩm từ một nước này sang nước khác
- Thấp hơn giá có thể so sánh trong điều kiện thương mại thông thường với một sản phẩm tương tự nhằm mục đích tiêu dùng tại nước xuất khẩu, hoặc
- Trường hợp không có một giá nội địa như vậy, thấp hơn một trong hai mức;
- Giá so sánh cao nhất của sản phẩm tương tự dành cho xuất khẩu đến bất cứ một nước thứ ba nào trong điều kiện thương mại thông thường, hoặc;
- Giá thành sản xuất ra sản phẩm tại nước xuất xứ có cộng thêm một mức hợp lý chi phí bán hàng và lợi nhuận.
- Trong mỗi trường hợp trên, sẽ có xem xét điều chỉnh một cách thoả đáng đối với các khác biệt về điều kiện và điều khoản bán hàng, khác biệt về chế độ thuế hay những sự chênh lệch khác có tác động tới việc so sánh giá.
– Nhằm mục đích triệt tiêu tác dụng hay ngăn ngừa việc bán phá giá, một bên ký kết có thể đánh vào bất cứ một sản phẩm được bán phá giá nào một khoản thuế chống bán phá giá nhưng không lớn hơn biên độ bán phá giá của sản phẩm đó. Trong khuôn khổ Điều này, biên độ bán phá giá được coi là sự chênh lệch về giá được xác định phù hợp với các quy định tại khoản 1.
– Thuế đối kháng không được phép đánh vào một sản phẩm có xuất xứ từ lãnh thổ của một bên ký kết được nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác ở mức vượt quá mức tương ứng với khoản hỗ trợ hay trợ cấp đã xác định là đã được cấp trực tiếp hay gián tiếp cho chế biến, sản xuất hay xuất khẩu của sản phẩm đó tại nước xuất xứ hay nước xuất khẩu, trong đó bao gồm cả các khoản trợ cấp đặc biệt cho việc chuyên chở sản phẩm đó. Thuật ngữ thuế đối kháng được hiểu là một khoản thuế đặc biệt áp dụng nhằm mục đích triệt tiêu mọi khoản ưu đãi hay trợ cấp dành trực tiếp hay gián tiếp cho công đoạn chế biến, sản xuất hay xuất khẩu bất cứ hàng hoá nào.
– Không một sản phẩm nào xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác sẽ bị đánh thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với lý do đã được miễn thuế mà một sản phẩm tương tự phải trả khi tiêu thụ tại nước xuất xứ hoặc xuất khẩu, hay vì lí do đã được hoàn lại các thuế đó.
– Không một sản phẩm nào xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên ký kết khác sẽ cùng lúc phải chịu cả thuế bán phá giá và thuế đối kháng cho cùng một hoàn cảnh bán phá giá hay trợ cấp xuất khẩu.
(a) Không một bên ký kết nào sẽ đánh thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với hàng nhập khẩu xuất xứ lãnh thổ của một bên ký kết khác trừ khi đã xác định, tuỳ theo trường hợp cụ thể, thực sự đã gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trong nước đã được thiết lập hay làm chậm đáng kể việc lập nên một ngành sản xuất trong nước.
(b) Các Bên Ký Kết có thể cho phép miễn thực hiện các yêu cầu của điểm (a) đoạn này, cho phép một bên ký kết áp dụng thuế chống bán phá giá hay thuế đối kháng với việc nhập khẩu bất cứ sản phẩm nào nhằm mục đích triệt tiêu việc bán phá giá hay trợ cấp đã gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể với một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết khác là bên xuất khẩu sản phẩm tương ứng vào lãnh thổ của bên ký kết nhập khẩu sản phẩm đã nói trên. Các Bên Ký Kết sẽ miễn thực hiện các yêu cầu của điểm (a) thuộc khoản này, cho phép một bên ký kết áp dụng thuế đối kháng trong trường hợp nhận thấy rằng việc trợ cấp đang gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho một ngành sản xuất trên lãnh thổ của một bên ký kết khác cũng xuất khẩu sản phẩm tương ứng vào lãnh thổ của bên ký kết nhập khẩu sản phẩm.
(c) Tuy nhiên trong các tình huống đặc biệt, nếu việc trì hoãn có thể gây ra tổn hại khó có thể khắc phục được, một bên ký kết có thể đánh thuế đối kháng với mục đích như đã nêu tại điểm (b) của khoản này mà không cần được Các Bên Ký Kết thông qua trước; miễn rằng phải thông báo lại ngay cho Các Bên Ký Kết biết và khi Các Bên Ký Kết không tán thành thì sẽ rút bỏ ngay việc áp dụng thuế này.
– Một hệ thống ổn định giá trong nước hay ổn định sự hoàn vốn cho các nhà sản xuất sản phẩm sơ cấp trong nước, không phụ thuộc vào biến động giá cả trong xuất khẩu có khi dẫn tới bán hàng cho xuất khẩu với giá thấp hơn giá so sánh dành cho người mua trên thị trường trong nước, sẽ không được suy diễn là dẫn tới tổn hại đáng kể hiểu theo ý của khoản 6 nếu giữa các bên ký kết có quyền lợi đáng kể với sản phẩm này sau khi tham vấn thấy rằng:
(a) hệ thống đó cũng dẫn đến kết quả là sản phẩm được bán cho xuất khẩu với giá cao hơn giá so sánh bán sản phẩm tương tự cho người mua trong nước, và
(b) hệ thống cũng vận hành như vậy, hoặc trong điều chỉnh thực tế sản xuất, hoặc một lý do nào khác, không dẫn tới hệ quả là thúc đẩy không chính đáng xuất khẩu hay làm tổn hại nghiêm trọng quyền lợi của các bên ký kết khác.
Quy định về áp dụng và thu thuế đối kháng:
– Nếu, sau khi đã cố gắng hợp lý để hoàn thành việc tham vấn, một Thành viên xác định chắc chắn rằng có trợ cấp và mức trợ cấp, và rằng thông qua trợ cấp, hàng nhập khẩu được trợ cấp đã gây ra tổn hại, thì Thành viên đó có thể đánh thuế đối kháng theo quy định của Điều này, trừ khi việc trợ cấp được rút bỏ.
– Khi mọi yêu cầu để có thể áp dụng thuế đối kháng đã được thoả mãn, thì quyết định có đánh thuế đối kháng hay không và số tiền thuế đối kháng sẽ thu phải bằng mức trợ cấp hay thấp hơn mức trợ cấp, do cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu đưa ra. Các Thành viên mong muốn rằng việc đánh thuế đối kháng trên lãnh thổ của tất cả các Thành viên sẽ không cứng nhắc và rằng mức thuế đối kháng nên thấp hơn tổng mức trợ cấp, nếu mức thuế đối kháng thấp hơn này là đủ để khắc phục thiệt hại với ngành sản xuất trong nước, và mong muốn rằng thủ tục lập ra cho phép các cơ quan có thẩm quyền tính toán đầy đủ đến và thể hiện được tính đại diện quyền lợi của mọi bên trong nước liên quan mà quyền lợi của họ có thể bị tổn hại do việc áp dụng thuế đối kháng.
– Khi thuế đối kháng được áp dụng đối với bất kỳ sản phẩm nào, thuế đối kháng phải được đánh, với mức thuế phù hợp với từng trường hợp, trên cơ sở không phân biệt đối xử với sản phẩm nhập khẩu từ mọi nguồn đã kết luận là có trợ cấp và gây ra thiệt hại, trừ hàng nhập khẩu từ những nguồn đã từ bỏ việc áp dụng trợ cấp hay từ những nguồn đã có cam kết theo quy định của Hiệp định này và đã được chấp nhận. Bất kỳ nhà xuất khẩu nào có hàng xuất khẩu phải chính thức chịu thuế đối kháng nhưng chưa bị điều tra với lý do không phải là từ chối hợp tác trong điều tra, sẽ có quyền yêu cầu được tiến hành xem xét lại khẩn trương để cơ quan có thẩm quyền đang điều tra xác định ngay một mức thuế suất đối kháng cụ thể áp dụng đối với nhà xuất khẩu đó.
– Không đánh thuế đối kháng đối với hàng nhập khẩu vượt quá số tiền trợ cấp đã được kết luận là có tồn tại, tính theo đơn vị của sản phẩm được trợ cấp và xuất khẩu.
Mời bạn xem thêm
- Án treo có được đi làm không?
- Án treo là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù phải không?
- Cải tạo không giam giữ có được đi làm không?
- Án treo và cải tạo không giam giữ cái nào nặng hơn?
Thông tin liên hệ Luật sư X
Trên đây là tư vấn của Luật Sư X về vấn đề “Trợ cấp và các biện pháp đối kháng trong thương mại quốc tế quy định như thế nào?″. Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến quy định soạn thảo mẫu đơn xin tạm ngừng kinh doanh; thủ tục giải thể công ty cổ phần; cách tra số mã số thuế cá nhân; hợp pháp hóa lãnh sự Hà Nội; hoặc; trích lục khai tử; muốn sử dụng dịch vụ tạm ngừng kinh doanh, thủ tục xin hợp pháp hóa lãnh sự của chúng tôi; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
Facebook: www.facebook.com/luatsux
Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
– Trợ cấp là hình thức cho phép; nhưng trong các giới hạn và điều kiện nhất định. WTO có hai hệ thống quy định riêng về cải cách áp dụng cho hai nhóm:
+ Sản phẩm đối với hàng công nghiệp: Các loại trợ cấp các quy tắc và điều kiện cho từng loại cùng với các biện pháp xử lý nếu có vi phạm hoặc trợ cấp gây thiệt hại được quy định trong Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng hay còn gọi là hiệp định SCM;
+ Đối với hàng nông sản tuân thủ hiệp định nông nghiệp của WTO.
Thông thường trong quá trình đàm phán gia nhập WTO các nước có thể đàm phán để điều chỉnh một số nội dung so với quy định chung về trợ cấp tại Hiệp Định SCM.
Đối với Việt Nam những điều kiện chính này bao gồm:
– Trợ cấp đèn đỏ: Việt Nam cam kết bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp này bao gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu từ thời điểm ra nhập; riêng đối với các ưu đãi đầu tư ưu đãi về dựa trên tiêu chí thành tích xuất khẩu và tỷ lệ nội địa hóa mà cơ quan Nhà Nước đã cho phép doanh nghiệp được hưởng từ trước ngày gia nhập WTO thì sẽ được tiếp tục thực hiện cho đến hết năm năm kể từ ngày gia nhập
– Các loại trợ cấp khác và các hình thức xử lý vi phạm hoặc biện pháp đối kháng tuân thủ hiệp định SCM.
Như vậy các doanh nghiệp nội địa và FDI đã thành lập và được hưởng ưu đãi thuế dựa trên tiêu chí xuất khẩu hoặc tỷ lệ nội địa hóa sẽ tiếp tục được hưởng ưu đãi đến hết ngày 11 tháng 1 năm 2012 trường ngoại lệ này tất cả các hình thức trợ cấp khác mà doanh nghiệp được hưởng sẽ tuân thủ các quy định tại Hiệp Định SCM.
để xác định hàng hóa nhập khẩu có được trợ cấp 20 cơ quan điều tra nước nhập khẩu sẽ tiến hành tính toán mức trợ cấp của hàng hóa đó phương pháp tính toán chi tiết tuân thủ pháp luật của nước chiều cha về vấn đề này Nhưng về cơ bản theo hướng sau:
– Thứ nhất nếu nhà nước cho doanh nghiệp vay một khoản với mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất thương mại Bình thường cho khoản vay tương tự mức trợ cấp được tính là phần chênh lệch giữa hai mức lãi suất này;
– Thứ Hai nếu nhà nước bảo lãnh vay với chi phí bảo lãnh thấp hơn chi phí mà doanh nghiệp phải trả cho khoản vay thương mại tương tự Nếu không có bảo lãnh của nhà nước mức trợ cấp sẽ được tính là phần chênh lệch giữa hai mức này.
– Thứ ba nếu Nhà nước mua hoặc cung cấp hàng hóa dịch vụ với giá cao hơn mức hợp lý hoặc giá cung cấp thấp hơn mức hợp lý xác định theo theo các điều kiện thị trường của hàng hóa dịch vụ liên quan bước trợ cấp là mức chênh lệch giá biên độ trợ cấp được tính theo phần trăm mức trợ cấp trên trị giá hàng hóa