Chào Luật sư. Luật sư cho tôi hỏi trường hợp nào người mẹ không được quyền nuôi con?
Theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình, cha, mẹ sau khi ly hôn vẫn phải có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình. Do đó, sau khi ly hôn, nếu cha mẹ có thỏa thuận thì Tòa án sẽ công nhận thỏa thuận đó và giao quyền nuôi con cho một trong hai người theo thỏa thuận của vợ, chồng. Tuy nhiên, nếu cha, mẹ không có thỏa thuận thì Tòa án sẽ giao con cho người đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt cho con.
Cùng Luật sư X tìm hiểu trường hợp nào mẹ không được nuôi con qua bài viết dưới đây.
Trường hợp nào mẹ không được nuôi con?
Theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình:
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Theo quy định này, khi ly hôn, vợ chồng có thể thỏa thuận việc nuôi con. Tòa án sẽ công nhận sự thỏa thuận của hai vợ, chồng. Nếu hai bên không thể thỏa thuận được thì theo quy định nêu trên, Tòa án sẽ căn cứ và quyền lợi về mọi mặt của con để xem xét và quyết định con sẽ ở với ai.
Về việc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình nêu rõ:
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Với câu hỏi của bạn, do con bạn mới được 01 tuổi nên theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình nêu trên, con bạn sẽ được giao trực tiếp cho bạn – là mẹ cháu bé nuôi dưỡng.
Tuy nhiên, cũng theo quy định này, có thể thấy, không phải mọi trường hợp người mẹ sẽ được nuôi con. Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình chỉ ra hai trường hợp người mẹ không được nuôi con gồm:
– Người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
– Cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Như vậy, có thể thấy, con dưới 36 tuổi sẽ được Tòa án phân trực tiếp cho người mẹ nuôi nếu người mẹ có đủ điều kiện để nuôi con. Nếu không có hoặc cha, mẹ có thỏa thuận khác thì trẻ dưới 36 tháng tuổi vẫn có thể được cha nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
Trường hợp nào cha mẹ đều không có quyền nuôi con sau ly hôn?
Theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình, sau khi ly hôn, Tòa án sẽ giao con cho một trong hai bên cha hoặc mẹ nuôi dưỡng theo thỏa thuận của cha, mẹ hoặc không theo thỏa thuận thì căn cứ vào quyền lợi tốt nhất về mọi mặt cho con.
Tuy nhiên, khoản 4 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nêu rõ:
Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.
Theo quy định, nếu cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì người nuôi con sẽ là người giám hộ. Đây cũng là quy định được nêu tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự, người được giám hộ là người:
Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;
Như vậy, các trường hợp con sẽ không ở với cha hoặc không ở với mẹ gồm:
- Cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền với con.
- Cha, mẹ không có điều kiện để chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ.
Người giám hộ phải có đủ các điều kiện nêu tại Điều 49 Bộ luật Dân sự sau đây:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
- Có tư cách đạo đức tốt, có đầy đủ các điều kiện để thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ không sống cùng cha, mẹ sau khi ly hôn.
- Không phải người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc không phải người bị kết án nhưng chưa được xóa án tích các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản người khác như Cố ý gây thương tích, Trộm cắp tài sản…
- Không phải người bị Tòa án hạn chế quyền với con chưa thành niên.
Hạn chế quyền của cha mẹ với con chưa thành niên
Việc hạn chế quyền của cha, mẹ với con chưa thành niên được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình, gồm:
- Người bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con;
- Người có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
- Người phá tán tài sản của con.
- Người có lối sống đồi trụy.
- Người xúi giục, ép buộc con là điều trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Do đó, nếu thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì người mẹ sẽ bị hạn chế quyền với con chưa thành niên.
Mời bạn xem thêm:
Thông tin liên hệ với Luật sư X
Trên đây là tư vấn của Luật sư X. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên; để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến dịch vụ thành lập công ty mới, tạm dừng công ty, giải thể công ty trách nhiệm hữu hạn, dịch vụ hợp thức hóa lãnh sự, tra số mã số thuế cá nhân, đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam, giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, tra cứu thông tin quy hoạch, xin phép bay flycam, hợp thức hóa lãnh sự…của luật sư X, hãy liên hệ 0833102102.
Câu hỏi thường gặp
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình, sau khi ly hôn, Tòa án sẽ giao con cho một trong hai bên cha hoặc mẹ nuôi dưỡng theo thỏa thuận của cha, mẹ hoặc không theo thỏa thuận thì căn cứ vào quyền lợi tốt nhất về mọi mặt cho con.
Tuy nhiên, khoản 4 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nếu cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì người nuôi con sẽ là người giám hộ.
Mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con dưới 36 tháng tuổi. Mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con là mẹ không đáp ứng đủ một hoặc cả hai điều kiện sau:
+) Điều kiện về vật chất bao gồm: Thu nhập, tài sản, chỗ ở của mẹ không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu về ăn, ở, sinh hoạt, điều kiện học tập… của con.
+) Điều kiện về tinh thần bao gồm: thời gian chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục con, tình cảm đã dành cho con từ trước tới nay, điều kiện cho con vui chơi giải trí, nhân cách đạo đức, trình độ học vấn…của mẹ.
Để được nuôi con dưới 36 tháng tuổi trong trường hợp này, người bố ngoài đưa ra các chứng cứ chứng minh mẹ không đủ điều kiện cũng phải chứng minh mình có đủ hai điều kiện trên.