Chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau vừa là quyền vừa là trách nhiệm của các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, không phải lúc nào nghĩa vụ nuôi dưỡng cũng có thể thực hiện được. Trong hoàn cảnh nhất định, người có nghĩa vụ nuôi dưỡng có thể không có điều kiện thực hiện nghĩa vụ. Và người được cấp dưỡng đã đạt đến mức độ nhất định có thể tự nuôi dưỡng mình. Do vậy, sẽ đến lúc nghĩa vụ cấp dưỡng được chấm dứt. Vậy Trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng? Bài viết dưới đây của Luật sư X sẽ giúp các bạn giải đáp.
Căn cứ pháp lý
Cấp dưỡng là gì?
Theo khoản 24 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; định nghĩa như sau:
“Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này“.
Như vậy; cấp dưỡng sẽ được thực hiện bằng tài sản vật chất như tiền để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không chung sống với mình dựa trên quan hệ huyết thống.
Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh chị em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, bác, cậu ruột và cháu; giữa vợ và chồng.
Trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng?
Theo quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định cụ thể như sau:
Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
– Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình;
Việc cấp dưỡng được thực hiện khi người được cấp dưỡng chưa thành niên; chưa có khả năng lao động và tài sản để tự nuôi bản thân. Tuy nhiên; khi đã thành niên thì họ mặc nhiên trở thành người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; có khả năng lao động để tự tạo ra tài sản nuôi bản thân.
– Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;
Cấp dưỡng là để đảm bao cho người được cấp dưỡng có đủ những điều kiện để đảm bảo được cuộc sống. Do đó; khi một người đã được nhận làm con nuôi thì cha nuôi, mẹ nuôi sẽ là người trực tiếp nuôi dưỡng; bời vậy mà việc cấp dưỡng cũng sẽ được chấm dứt.
– Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;
Trong một trường hợp khác; khi người có nghĩa vụ thực hiện cấp dưỡng trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng thì quan hệ cấp dưỡng giữa họ cũng chấm dứt. Chấm dứt cấp dưỡng không có nghĩa là người được cấp dưỡng không tiếp tục được “cung cấp” tiền, tài sản bởi người có nghĩa vụ mà trường hợp này; do người có nghĩa vụ thực hiện cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng; trực tiếp sử dụng tài sản của mình để cung cấp; chi tiêu cho người được cấp dưỡng nên điều kiện cấp dưỡng không đạt được.
– Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;
Cấp dưỡng được thực hiện giữa người thực hiện cấp dưỡng và người được cấp dưỡng. Do đó; khi một trong hai người này chết thì mặc nhiên nghĩa vụ này sẽ chấm dứt. Bởi khi người thực hiện cấp dưỡng phải đảm bảo về điều kiện tài sản nhất định mới thực hiện được việc cấp dưỡng; do đó mà khi người này chết thì việc cấp dưỡng sẽ còn được đảm bảo nữa. Và người lại khi người được cấp dưỡng chết thì mặc định việc cấp dưỡng chấm dứt.
– Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn;
Trong một số trường hợp khác; như khi cha, mẹ ly hôn và có thỏa thuận về việc nuôi dưỡng đứa trẻ; trong thỏa thuận không yêu cầu bên không trực tiếp nuôi dưỡng đứa trẻ phải thực hiện nghĩa vụ phải cấp dưỡng; hay khi bên có nghĩa vụ chứng minh được rằng mình không có khả năng nuôi dưỡng; cũng như cấp dưỡng người có quyền được cấp dưỡng;… thì người thực hiện cấp dưỡng cũng không phải tiếp tục thực hiện việc cấp dưỡng.
– Trường hợp khác theo quy định của luật.
Như vậy, khi nghĩa vụ cấp dưỡng đang được thực hiện mà có một trong các căn cứ trên thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt. Trong trường hợp cấp dưỡng tự nguyện theo sự thỏa thuận của các bên thì các bên cũng có thể thỏa thuận để , chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng khi có căn cứ. Trong trường hợp cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án thì khi có một trong các căn cứ trên, người có nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người được cấp dưỡng có quyền thông báo bằng văn bản với cơ quan thi hành án để cơ quan thi hành án ra quyết định chấm dứt thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Phương thức cấp dưỡng được quy định như thế nào?
Theo quy định tại Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì phương thức cấp dưỡng được quy định cụ thể như sau:
Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần.
Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ngoài ra, Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết; khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nghĩa vụ cấp dưỡng có yếu tố nước ngoài
Theo Điều 129 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng có yếu tố nước ngoài như sau:
“1. Nghĩa vụ cấp dưỡng tuân theo pháp luật của nước nơi người yêu cầu cấp dưỡng cư trú. Trường hợp người yêu cầu cấp dưỡng không có nơi cư trú tại Việt Nam thì áp dụng pháp luật của nước nơi người yêu cầu cấp dưỡng là công dân;
2. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết đơn yêu cầu cấp dưỡng của người quy định tại khoản 1 Điều này là cơ quan của nước nơi người yêu cầu cấp dưỡng cư trú.”
Căn cứ theo quy định tại Điều 129 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; nghĩa vụ cấp dưỡng có yếu tố nước ngoài tuân theo pháp luật của nước nơi người yêu cầu cấp dưỡng cư trú. Như vậy, nếu người yêu cầu cấp dưỡng cư trú ở Việt Nam; thì việc cấp dưỡng sẽ được thực hiện theo pháp luật Việt Nam. Khi đó, cơ quan giải quyết đơn yêu cầu này sẽ là cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
Còn trong trường hợp nếu một người trực tiếp nuôi con và là người có yêu cầu cấp dưỡng cho con sau ly hôn đang ở nước ngoài; thì việc cấp dưỡng sẽ được thực hiện theo pháp luật của nước nơi họ đang cư trú. Nếu cư trú tại Việt Nam thì tuân theo pháp luật Việt Nam; còn không có nơi cư trú tại Việt Nam thì áp dụng pháp luật của nước nơi người đó là công dân để giải quyết vấn đề cấp dưỡng này.
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật Sư X về vấn đề “Trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng?“. Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến lấy giấy chứng nhận độc thân; hợp thức hóa lãnh sự; giấy phép bay Flycam, báo cáo tài chính 3 năm gần nhất, hóa đơn điện tử hộ kinh doanh…. của Luật Sư X, hãy liên hệ: 0833.102.102.
Hoặc qua các kênh sau:
Facebook: www.facebook.com/luatsux
Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Cấp dưỡng được thực hiện giữa hai bên; một bên thực hiện cấp dưỡng và bên còn lại là được cấp dưỡng. Do đó; chấm dứt việc cấp dưỡng có thể được hiểu là việc người có nghĩa vụ thực hiện cấp dưỡng kết thúc; hay ngừng thực hiện việc cung cấp tài sản để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Theo quy định tại Điều 129 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; nghĩa vụ cấp dưỡng có yếu tố nước ngoài tuân theo pháp luật của nước nơi người yêu cầu cấp dưỡng cư trú. Như vậy, nếu người yêu cầu cấp dưỡng cư trú ở Việt Nam; thì việc cấp dưỡng sẽ được thực hiện theo pháp luật Việt Nam. Khi đó, cơ quan giải quyết đơn yêu cầu này sẽ là cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.