Xã hội ngày càng nâng cao, nền kinh tế ngày càng phát triển. Bên cạnh đó không ít những trường hợp tiêu cực, những tội phạm xuất hiện ảnh hưởng đến đời sống, gây mất trật tự toàn xã hội. Tội bắt cóc nằm trong số đó, khi mà bắt cóc được xem là hình thức bí mật bắt giữ người trái pháp luật nhằm thực hiện một mục đích hoặc âm mưu nào đó về vấn đề kinh tế, chính trị. Liệu những tội phạm sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật như thế nào? Với pháp luật sẽ quy định tội bắt cóc đi tù bao nhiêu năm?
Bài viết dưới đây của Luật sư X sẽ làm sáng tỏ quy định pháp luật về tội bắt cóc cũng như nêu rõ, cụ thể về mức hình phạt đối với tội danh này. Mời bạn theo dõi đón đọc ngay nhé!
Căn cứ pháp lý
Quy định pháp luật về tội bắt cóc con tin
Điều 301 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau:
“1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người khác làm con tin nhằm cưỡng ép một quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân làm hoặc không làm một việc như một điều kiện để thả con tin, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 113 và Điều 299 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 04 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người đủ 70 tuổi trở lên;
d) Đối với người đang thi hành công vụ;
đ) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
Các dấu hiệu pháp lý của tội bắt cóc con tin
Dấu hiệu khách thể của tội phạm
Tội bắt cóc con tin xâm phạm đồng thời trật tự xã hội, an toàn xã hội và xâm phạm các quyền nhân thân của con người, đó là quyền được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể.
Dấu hiệu khách quan của tội phạm
Hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm là: bắt, giữ hoặc giam người khác làm con tin nhằm cưỡng ép một quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân làm hoặc không làm một việc như một điều kiện để thả con tin, trừ trường hợp là hành vi phạm tội quy định tại Điều 113 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản) và Điều 299 (Tội khủng bố) của BLHS năm 2015.
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này. Tội phạm hoàn thành khi hành vi phạm tội được thực hiện.
Dấu hiệu chủ quan của tội phạm.
Lỗi của người thực hiện tội bắt cóc con tin là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Mục đích phạm tội là buộc bên thứ ba làm hòa không làm một việc như một điều kiện để thả con tin (thông thường là yêu cầu tiền chuộc hoặc mục đích chính trị). Đây là dấu hiệu bắt buộc để định tội và là cơ sở để phân biệt giữa tội phạm này với một số tội phạm khác có hành vi tương tự.
Dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Quy định pháp luật về tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản
“Điều 169. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Dùng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
d) Đối với người dưới 16 tuổi;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
g) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Làm chết người;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Các dấu hiệu pháp lý của tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm
Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản bao gồm 02 hành vi là bắt cóc và hành vi chiếm đoạt tài sản. Do đó, hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản mà trước khi xâm phạm đến quyền sở hữu, nó đã xâm phạm đến quyền nhân thân của nạn nhân.
– Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Trong quyền nhân thân có các quyền khác như Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín,…
– Quyền sở hữu tài sản: Quyền sở hữu tài sản của con người gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội là hành vi bắt cóc người khác làm con tin nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.
Bắt cóc là hành vi bắt người trái pháp luật. Hành vi bắt người làm con tin được thực hiện một cách lén lút và đưa người bị bắt đến một nơi nào đó rồi tìm cách thông báo cho người thân của người bị bắt cóc biết, cùng với yêu cầu người thân của họ phải nộp một số tiền thì mới thả người bị bắt cóc, nếu không nộp tiền hoặc tài sản thì người bị bắt cóc sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm.
Hành vi bắt người trái pháp luật được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như: dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc bằng những thủ đoạn khác như cho uống thuốc ngủ, thuốc mê, xịt ete, lừa dối… để bắt được người làm con tin. Thủ đoạn bắt cóc không có ý nghĩa trong việc định tội danh, những hành vi bắt cóc người làm con tin lại là đặc trưng cơ bản của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, bởi lẽ bắt người làm con tin chính là một thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Người bị bắt cóc làm con tin là người bất kỳ ( người lớn, trẻ em, người già, nam giới, nữ giới…, không phân biệt tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, địa vị xã hội…).
Ngoài hành vi bắt cóc người làm con tin, người phạm tội còn có hành vi đe doạ người khác ( cơ quan, tổ chức hoặc người thân của con tin ) nếu không giao nộp tiền hoặc tài sản thì con tin sẽ bị giết, bị đánh đập, hành hạ… Hành vi đe doạ người khác cũng có thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau như: gọi điện thoại, viết thư, nhắn tin qua người khác hoặc trực tiếp gặp người thân của con tin…
Cùng với việc đe doạ người khác, người phạm tội còn có thể có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc có những hành vi, thủ đoạn khác đối với người bị bắt làm con tin để người này sợ hãi mà yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc người thân của mình nộp tiền hoặc tài sản như: đánh, trói, bắt nhịn ăn, nhịn uống, làm nhục, doạ giết, dọa đánh, dọa đem bán ra nước ngoài, bán cho các ổ mại dâm… Đối với hành vi xâm phạm trực tiếp đến con tin, nếu cấu thành một tội độc lập thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với hành vi xâm phạm.
Hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi bắt cóc người khác làm con tin là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.
Trường hợp, người phạm tội chưa bắt cóc được người làm con tin vì những lý do khác nhau, thì thuộc trường hợp phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội ( chuẩn bị phương tiện, dụng cụ… để bắt cóc nhưng bắt không được).
Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là người thực hiện hành vi miêu tả tại mặt khách quan của tội phạm, nhưng không phải ai thực hiện hành vi đó cũng đều là chủ thể của tội phạm mà chỉ những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo luật định mới là chủ thể của tội phạm.
Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng ta có thể hiểu người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.
Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 14 tuổi trở lên đối với các tội quy định tại Khoản 2,3,4 Điều 169 Bộ luật Hình sự. Điều 12 Bộ luật Hình sự cũng quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Do đó người từ đủ 16 tuổi là chủ thể đối với tội phạm tại các Khoản của Điều 169 Bộ luật Hình sự.
Chủ thể của tội phạm có thể là cá nhân hoặc có đồng phạm cùng thực hiện tội phạm. Trường hợp tội phạm được thực hiện có tổ chức, tức là có mối liên kết và phân công nhiệm vụ chặt chẽ giữa các thành viên thì có thể bị coi là tình tiết tăng nặng quy định tại Khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự.
Mặt chủ quan của tội phạm
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Cố ý trực tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Tức là người phạm tội biết rõ hành vi bắt cóc người làm con tin là trái pháp luật và mục đích của hắn là muốn chiếm đoạt và biến tài sản của người khác thành tài sản của mình.
Động cơ phạm tội của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác. Mục đích thực hiện hành vi cướp cùng chỉ nhằm thực hiện động cơ trên. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có thể có trước khi thực hiện hành vi bắt cóc, nhưng cũng có thể xuất hiện trong hoặc sau khi đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin.
Mức hình phạt đối với tội bắt cóc theo quy định pháp luật
Hình phạt áp dụng đối với tội bắt cóc con tin
– Khung hình phạt cơ bản: bị phạt tù từ 01 năm đến 04 năm.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất: bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm, khi có các tình tiết tăng nặng sau:
+ Có tổ chức: Là trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm và đòi hỏi phải có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Khi đã xác định được trường hợp cụ thể đó là phạm tội có tổ chức, thì phải áp dụng tình tiết tăng nặng này đối với tất cả những người cùng thực hiện tội phạm (người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức). Mức độ tăng nặng phụ thuộc vào quy mô tổ chức, vai trò của từng người trong việc tham gia vụ án.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là người có chức vụ đã lợi dụng vị trí công tác, lợi dụng quyền hạn trong khi thực hiện công vụ để phạm tội.
+ Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người đủ 70 tuổi trở lên:
+ Đối với người đang thi hành công vụ:
+ Gây hậu quả nghiêm trọng: Hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra. Hậu quả có thể là thiệt hại về vật chất và có thể là thiệt hại phi vật chất.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ hai: bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
– Khung hình phạt tăng nặng thứ ba: bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm.
Hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra. Hậu quả có thể là thiệt hại về vật chất và có thể là thiệt hại phi vật chất.
Tùy từng hậu quả do từng loại tội phạm gây ra mà xác định trường hợp nào gây hậu quả nghiêm trọng, trường hợp nào gây hậu quả rất nghiêm trọng và trường hợp nào gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
Tội bắt cóc con tin không có hình phạt bổ sung, người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Khung hình phạt tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Theo Điều 169 Bộ luật hình sự 2015 quy định về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:
Người có hành vi bắt cóc người khác làm con tin nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì bị phạt tù trong thời gian từ 02 năm lên đến 07 năm.
Thứ nhất: Bị phạt tù từ 05 lên đến 12 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Phạm tội một cách có tổ chức;
– Hành vi phạm tội mang tính chất chuyên nghiệp;
– Trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc các thủ đoạn nguy hiểm khác;
– Trường hợp đối với người dưới 16 tuổi;
– Trường hợp đối với 02 người trở lên;
– Có hành vi chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
– Hành vi phạm tội gây thương tích, tổn hại đối với sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% lên đến 30%;
– Hành vi gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
– Có hành vi tái phạm gây nguy hiểm.
Thứ hai: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị tiến hành phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:
– Có hành vi chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
– Trường hợp gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân với mức tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
Thứ ba: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
– Hành vi chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
– Phạm tội gây chết người;
– Trường hợp gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Người phạm tội còn có thể bị xử phạt hành chính với số tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Mời bạn xem thêm:
- Điều 60: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
- Trình tự kê biên tài sản thi hành án theo quy định pháp luật như thế nào?
- Nữ hiếp dâm nam có phạm tội hay không?
Thông tin liên hệ với Luật sư X
Trên đây là tư vấn của Luật sư X về vấn đề “Tội bắt cóc đi tù bao nhiêu năm“. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên; để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến giải thể công ty, giải thể công ty tnhh 1 thành viên, hồ sơ xin trích lục bản đồ địa chính… của luật sư X, hãy liên hệ 0833102102.
FaceBook: www.facebook.com/luatsux
Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Khoản Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:
1. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định:
a) Quyết định khởi tố vụ án hình sự;
b) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Như vậy thông thường, thời hạn khởi tố vụ án hình sự là 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng.
Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh trong thời hạn quy định tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng.
Chậm nhất là 05 ngày trước khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh quy định tại khoản này, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh.
Trong trường hợp người Việt Nam đang sinh sống, học tập và làm việc tại nước ngoài một cách hợp pháp, công khai bị xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ hoặc tài sản thì cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ở quốc gia nước sở tại thực hiện hoạt động trợ giúp, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân Việt Nam căn cứ, tuân thủ theo các quy định của quốc gia nước sở tại hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam và quốc gia đó là thành viên.
Ngoài các quy định thể hiện tính nguyên tắc trong quan hệ công pháp quốc tế về chủ quyền của mỗi quốc gia, trong sự việc này những cá nhân hoặc tổ chức có quyền và trách nhiệm liên quan với người bị bắt cóc tống tiền trên cơ sở tuân thủ theo các quy định của pháp luật Việt Nam trợ giúp, cung cấp thông tin tạo điều kiện cho việc giải quyết, xử lý các sự kiện pháp lý đang diễn ra ở nước ngoài như dựa theo các quy định về chức năng nhiệm vụ của lực lượng công an nhân dân, được quyền thông báo sự việc đến cục hay phòng an ninh đối ngoại thuộc lực lượng công an cấp huyện nơi thường trú để được hướng dẫn, phối hợp giải quyết sự việc.
Căn cứ Điều 22 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về phòng vệ chính đáng như sau:
“1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.”