Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hay đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp là một trong ba trụ cột của các bước tái cơ cấu nền kinh tế. Trong đó, không thể không nhắc đến cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Vậy hình thức này nghĩa là gì? Tại sao phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời đại hiện nay? Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu hình thức này qua bài viết dưới đây nhé!
Tại sao phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước?
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước chính là việc :
- Chuyển doanh nghiệp do chủ sở hữu là Nhà nước (gọi là doanh nghiệp đơn sở hữu) thành loại hình công ty cổ phần (gọi là doanh nghiệp đa sở hữu).
- Chuyển từ hoạt động theo quy định Luật doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp được phân loại thành những cổ phần chào bán cho cán bộ công nhân ở doanh nghiệp; và phần còn lại thuộc chiếm hữu nhà nước. Số lượng cổ phần do nhà nước chiếm hữu hoàn toàn có thể nhiều hoặc ít. Có thể từ 0 % tới 100 % tùy vào từng doanh nghiệp .
Việc cổ phần hóa được triển khai nhằm mục đích với mục tiêu tránh gây ra những xích mích giữa nhà nước với bộ phận cán bộ ; nhân dân quan ngại về sự tăng trưởng trong khu vực kinh tế tài chính tư nhân .
nhà nước Nước Ta đã quyết định hành động sẽ không bán đứt những doanh nghiệp của mình cho những cá thể. Và thay vào đó là thực thi chuyển những doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp cổ phần.
Nguyên nhân phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Tại sao phải cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước? Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được Nhà nước và xã hội đặc biệt quan trọng chăm sóc trong những năm gần đây. Bởi những nguyên do dưới đây :
Những yếu kém trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước
- Doanh nghiệp nhà nước chưa phát huy được quyền tự chủ về tài chính và tự chủ sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn còn chưa chủ động trong việc huy động vốn và quản lý tài sản, chỉ có rất ít các doanh nghiệp có chiến lược huy động vốn một cách cụ thể. Do chủ sở hữu doanh nghiệp là Nhà nước, nên doanh nghiệp luôn rơi vào thế bị động hoặc ỷ lại vào các quyết định của Nhà nước trong khi người quản lý doanh nghiệp mới là người nắm rõ nhất tình trạng của doanh nghiệp thì lại không được quyền tự mình quyết định mọi vấn đề hệ trọng của doanh nghiệp. Từ đó, các quyết định liên quan tới hoạt động tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh không được doanh nghiệp đưa ra kịp thời, hoặc các quyết định được đưa ra không chính xác do phải phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Nhà nước.
- Người quản lý doanh nghiệp nhà nước có trình độ quản lý còn yếu kém, cơ chế quản lý trong các doanh nghiệp còn chưa hợp lý, kém hiệu quả. Ở các doanh nghiệp nhà nước, người quản lý doanh nghiệp chỉ là người được Nhà nước phân công làm đại diện phần vốn chủ sở hữu chứ không phải chủ sở hữu của doanh nghiệp. Do đó, trách nhiệm đối với tình hình hoạt động của doanh nghiệp không cao. Bên cạnh đó, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước thường làm theo nhiệm kỳ, điều đó khiến cho những người này không thể có được những kiến thức, kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc về doanh nghiệp để điều hành doanh nghiệp đó. Như vậy, người đại diện phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp không thể chỉ đạo, giám sát tốt hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, từ đó dẫn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trở nên kém hiệu quả.
Trước tình hình đó, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là cần thiết bởi cổ phần hóa sẽ làm tăng tính chủ động cho doanh nghiệp, các quyết định liên quan đến những vấn đề hệ trọng của doanh nghiệp sẽ được đưa ra chính xác, kịp thời, không bị phụ thuộc một cách tuyệt đối vào Nhà nước bởi doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa sẽ là doanh nghiệp đa chủ sở hữu chứ không phải chỉ duy nhất một chủ sở hữu là Nhà nước. Ngoài ra, việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần sẽ làm thay đổi cơ chế quản lý tại doanh nghiệp. Người quản lý công ty cổ phần có thể là cổ đông của công ty cổ phần, hoặc có thể là người được thuê để thực hiện công việc quản lý, người quản lý sẽ phải có trình độ chuyên môn giỏi và tinh thần trách nhiệm cao đối với doanh nghiệp. Như vậy, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ khắc phục được những hạn chế tồn tại trong các doanh nghiệp nhà nước, từ đó từng bước thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hiệu quả hơn.
Lợi thế của công ty cổ phần so với các loại hình doanh nghiệp khác
Để đa dạng hóa chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước cần phải được chuyển đổi thành loại hình công ty cổ phần với đặc trưng không giới hạn số lượng tối đa chủ sở hữu.
Đối với bản thân doanh nghiệp, so với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ phần có nhiều lợi thế giúp cho doanh nghiệp phát triển và cạnh tranh trên thị trường, cụ thể như sau:
- Công ty cổ phần có khả năng huy động vốn dễ dàng mà các loại hình doanh nghiệp khác không có được. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp mà vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần và loại hình doanh nghiệp này không giới hạn tối đa số lượng cổ đông. Do đó, nếu các loại hình doanh nghiệp khác chỉ có thể huy động vốn thông qua vay vốn ngân hàng (như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn) hoặc phát hành trái phiếu (như công ty trách nhiệm hữu hạn), thì công ty cổ phần còn có thể thực hiện huy động vốn thông qua chào bán cổ phần thay vì các hình thức huy động vốn khác gặp nhiều khó khăn hơn như vay vốn ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu. Đối với việc vay vốn ngân hàng, những khoản tiền các ngân hàng (với tư cách là các trung gian tài chính) cho doanh nghiệp vay lại được huy động từ các chủ thể có tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, do đó chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra để có được vốn vay từ các ngân hàng có thể sẽ cao hơn so với chi phí doanh nghiệp bỏ ra để huy động vốn trực tiếp từ các chủ thể khác có tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế.
- Công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu sẽ tự chủ trong việc đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh so với doanh nghiệp nhà nước. Nếu các doanh nghiệp nhà nước thường rơi vào thế bị động hoặc ỷ lại vào các quyết định của nhà nước về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do doanh nghiệp chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là nhà nước, thì đối với công ty cổ phần có nhiều chủ sở hữu, các vấn đề hệ trọng của doanh nghiệp sẽ được quyết định bởi đại hội đồng cổ đông với quyền biểu quyết của mỗi cổ đông tương đương với tỷ lệ cổ phần mà cổ đông đó sở hữu tại doanh nghiệp. Do đó, trong trường hợp nhà nước không phải là cổ đông nắm giữ cổ phần chi phối tại doanh nghiệp, các quyết định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào các cổ đông khác, các vấn đề hệ trọng của doanh nghiệp sẽ được quyết định một cách nhanh chóng, kịp thời do không phải chờ đợi xin ý kiến chỉ đạo từ nhà nước.
- Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp tốt nhất có thể tranh thủ sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay việc thu hút vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý thông qua liên kết với nước ngoài là vô cùng cần thiết để phát triển kinh tế trong nước. Công ty cổ phần với lợi thế huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của doanh nghiệp, từ đó các nhà đầu tư nước ngoài trở thành cổ đông của doanh nghiệp và có thể có những đóng góp nhất định cho doanh nghiệp liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Việc chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty cổ phần được thực hiện một cách tự do, trừ một số quy định của pháp luật liên quan đến hạn chế chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập hoặc hạn chế chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết.
Lợi ích của việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
- Đối với doanh nghiệp
Việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước tạo nên sự thôi thúc trong quy trình sản xuất và kinh doanh thương mại của nhân viên cấp dưới thao tác trong doanh nghiệp .
Với việc cổ phần hóa này, nghĩa vụ và trách nhiệm của người chỉ huy và nhân viên cấp dưới trong doanh nghiệp sẽ được kết nối ngặt nghèo vào quyền lợi của công ty. Từ đó, nghĩa vụ và trách nhiệm so với việc làm sẽ nhiều hơn và giảm bớt được phụ thuộc vào vào vốn góp vốn đầu tư của những cơ quan nhà nước
- Đối với Nhà nước
Hiện nay tình hình chung hoàn toàn có thể thấy của những doanh nghiệp nhà nước là làm ăn tiếp tục gặp thua lỗ. Điều này dẫn đến thực trạng mức khấu hao kinh tế tài chính rất lớn về cho nhà nước. Cho nên, kể từ năm 1990, hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được tiến hành thử nghiệm. Đến năm 2020, hình thức này đã được tiến hành thoáng đãng. Việc này giúp cắt giảm một số lượng lớn những ngân sách đền bù thua lỗ mà nhà nước phải chịu từ những công ty kinh doanh thương mại do mình nắm giữ .
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ kêu gọi được nguồn vốn từ người lao động và nhân dân. Việc này đã giảm bớt được nhiều gánh nặng kinh tế tài chính đè lên mạng lưới hệ thống những cơ quan nhà nước .
Điều kiện thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Việc cổ phần hóa không phải bất kể doanh nghiệp Nhà nước nào cũng hoàn toàn có thể thực thi được. Những doanh nghiệp chỉ khi bảo vệ đủ 02 điều kiện kèm theo dưới đây mới được triển khai cổ phần hóa :
- Doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước cần phải nắm giữ 100% vốn điều lệ.
- Doanh nghiệp còn vốn nhà nước sau khi được xử lý tài chính; và đã đánh giá lại giá trị doanh nghiệp.
Lưu ý:
Đối với trường hợp những doanh nghiệp sau khi đã được xử lý tài chính ; và được xác lập lại giá trị doanh nghiệp nhưng giá trị này thấp hơn những khoản phải chi trả thì giải quyết và xử lý như sau :
- Đối với các doanh nghiệp nằm trong danh mục Nhà nước tiếp tục nắm giữ số lượng cổ phần trên 50% tổng số cổ phần khi cổ phần hóa. Thì cơ quan đại diện của chủ sở hữu chỉ đạo doanh nghiệp kết hợp với Công ty Mua bán nợ Việt Nam. Và những chủ nợ của doanh nghiệp lên phương án mua bán nợ; nhằm mục đích tái cơ cấu doanh nghiệp. Nếu phương án trên không khả thi; và đạt được hiệu quả thì chuyển đổi sang thực hiện các hình thức chuyển đổi khác theo như quy định của pháp luật.
- Đối với các doanh nghiệp còn lại, cơ quan đại diện của chủ sở hữu quyết định chuyển hướng thực hiện những hình thức chuyển đổi khác theo đúng quy định của pháp luật.
Mời bạn xem thêm
- Thành lập công ty theo quy định Luật Doanh nghiệp
- Mẫu hợp đồng học việc tại doanh nghiệp
- Các loại hình doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp 2020
- Giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp
- Thực trạng quản lý nhà nước theo ngành và lãnh thổ ở nước ta hiện nay
Thông tin liên hệ với Luật sư X
Trên đây là tư vấn của Luật sư X về vấn đề “Tại sao phải cổ phần hóa doanh nghiệp?”. Chúng tôi hi vọng rằng, bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến xác nhận tình trạng độc thân, thành lập công ty hợp danh, thủ tục xin giải thể công ty cổ phần, tạm ngừng kinh doanh của doanh nghiệp, hợp thức hóa lãnh sự tại Việt Nam, tra cứu quy hoạch xây dựng, giấy phép bay flycam; đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, …. của Luật sư X. Hãy liên hệ: 0833102102. Hoặc qua các kênh sau:
Facebook: www.facebook.com/luatsux
Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Cổ phần là phần vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau. Cổ đông là cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần của công ty cổ phần. Cổ đông sáng lập là cổ đông sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông và ký tên trong danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần.
Trước tình hình kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn tình hình thu chi ngân sách nhà nước trong giai đoạn hiện nay luôn là một vấn đề khó khăn, trong đó chi ngân sách để đảm bảo cho các doanh nghiệp nhà nước vốn là một thử thách lớn nhưng thông qua cổ phần hóa khó khăn về vốn này sẽ cơ bản được giải quyết. Cổ phần hóa tạo ra khả năng huy động vốn rộng rãi, nhanh chóng kịp thời đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh.Muốn có thể được chuyển dịch giữa các nhà đầu tư trong và ngoài công ty cổ ngoài và công ty cổ phần tính chất xã hội hóa vốn hoạt động kinh doanh rất cao vào khả năng sử dụng của linh hoạt và có hiệu quả.
– Với lãnh đạo doanh nghiệp: việc đã quen với việc được ưu đãi về quyền lợi và địa vị cá nhân khiến các lãnh đạo doanh nghiệp khó có thể thích ứng được với công việc tự làm tự ăn khi cổ phần hóa doanh nghiệp. Ngoài ra còn tồn tại một vấn đề đó là các lãnh đạo doanh nghiệp sở hữu một số vốn lớn sẽ chiếm lĩnh được một lượng cổ phần lớn và chu trình này có thể lặp lại.
– Đánh giá đúng doanh nghiệp nhà nước: hiện nay không phải doanh nghiệp nhà nước nào cũng đều làm ăn thua lỗ. Do vậy cần đánh giá đúng doanh nghiệp cần phải cổ phần hóa hay không. Có như vậy thì mới có thể giúp cho công việc này thực sự có hiệu quả.
– Hạn chế của nhân viên công ty: vừa là cơ hội và đồng thời là thách thức đối với nhân viên của doanh nghiệp cổ phần hóa. Bởi số vốn đầu tư ít ỏi khiến cơ hội của họ để làm chủ tài chính của mình không quá nhiều bởi tiềm ẩn rủi ro công việc này là khá lớn.
Theo cam kết của Việt Nam khi trở thành thành viên chính thức của WTO cũng như các hiệp định song phương và đa phương với thương mại, Việt Nam phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, như vậy sẽ không còn tình trạng bao cấp của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước.Yêu cầu đặt ra là các doanh nghiệp này phải thực sự mạnh để có thể cạnh tranh và tồn tại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.