Mua bán nợ là thuật ngữ khá phổ biến trên thị trường tài chính- ngân hàng hiện nay. Đây là một hình thức kinh doanh phát triển từ khoản nợ gốc và thường là của những ngân hàng hay tổ chức tín dụng. Khi khoản nợ được bán đi thì toàn bộ quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ có sự thay đổi. Đối với những khoản nợ của cá nhân thì thường người ta ít biết đến hình thức mua bán nợ. Vậy mua bán nợ là gì? Quy định pháp luật về mua bán nợ như thế nào? Luật sư X sẽ giải đáp những thắc mắc này qua bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý
- Nghị định 69/2016/NĐ-CP
Mua bán nợ là gì?
Nợ (debt) là số tiền một cá nhân, tổ chức… đã vay người khác, tổ chức khác. Các khoản nợ phát sinh từ việc vay tiền để mua hàng hóa, dịch vụ hoặc tản sản chính. Các chứng chỉ nợ là bằng chứng để lấy lại số tiền cho vay, bao gồm cả lãi suất trong thời hạn vay. Có nhiều kiểu nợ khác nhau, tuy nhiên có 4 kiểu nợ cơ bản là: vay nợ. nợ tập đoàn, trái phiếu và giấy hẹn trả tiền.
Theo khoản 2 điều 3 Nghị định 69/2016/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh dịch vụ mua bán nợ thì cụm từ mua bán nợ được hiểu là việc bên bán nợ chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền đòi nợ và các quyền liên quán đến khoản nợ cho bên mua nợ và bên mua nợ phải trả tiền bên bán nợ. Như vậy mua bán nợ thực chất là một hình thức chuyển khoản nợ sang cho người khác, bao gồm tất cả quyền đòi nợ và những quyền lợi khác có liên quan đến khoản nợ đó. Người mua lại khoản nợ sẽ có nghĩa vụ phải thanh toán tiền cho bên bán nợ. Khi giao dịch này hoàn tất thì bên mua sẽ trở thành chủ nợ mới của người nợ và có toàn quyền quyết định đối với khoản nợ đó.
Kinh doanh dịch vụ mua bán nợ là việc thực hiện liên tục một hoặc một số các hoạt động liên quan đến việc mua bán nợ nhằm mục đích sinh lời, bao gồm: Mua nợ, bán nợ. môi giới mua bán nợ, tư vấn mua bán nợ và dịch vụ sàn giao dịch nợ.
Đặc điểm của hoạt động mua bán nợ
Thứ nhất, hoạt động mua bán nợ gắn liền với khả năng thu nợ. Người bán nợ sẽ nhận lại được số tiền đã cho vay trong khoảng thời gian sớm nhất theo như thỏa thuận của hợp đồng. Người bán nợ cũng không phải chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý nào liên quan đến việc xử lý khoản nợ tư người hoặc công ty mua bán nợ.
Thứ hai, hoạt động mua bán nợ có rủi ro cao. Chủ nợ cần chấp nhận số tiền hoàn về là thấp hơn so với số tiền ban đầu cho vay ban đầu. Người mua nợ cần chấp nhận sự bấp bênh khi không chắc chắn có thể đòi lại hoàn toàn số tiền nợ từ người nợ. Bản chất của mua bán nợ là thực hiện việc mua tài sản với tính rủi ro cao.
Thứ ba, nợ là hàng hóa có khả năng thanh toán nhưng không cao vì đây không phải hàng hóa thông thường giống các loại hàng hóa khác. Bên mua nợ thường là các công ty mua bán nợ đã hoạt động một cách chuyên nghiệp, trên thị trường Việt Nam hiện nay số lượng các công ty có thể đứng ra thu mua nợ là không nhiều.
Thứ tư, việc xác định giá cả hàng hóa đặc biệt này rất khó chinh xác vì tính rủi ro mà nó mang lại. Vì vậy cần phải có chuyên gia tham gia và đánh giá.
Quy định pháp luật về mua bán nợ
Mua bán nợ là hoạt động mang tính rủi ro cao, có ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều chủ thể nên để giảm thiểu những rủi ro tiềm ẩn đó, cần phải có pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hoạt động này nhằm hướng tới có thể bảo vệ tối đa lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan và thực sự đếm lại lợi ích cho nền kinh tế. Vì vậy, sự can thiệp của nhà nước thông qua pháp luật là yêu cầu tất yếu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được thực hiện đầy đủ, đồng thời ngăn chặn những rủi ro có thể mang lại đối với nền kinh tế. Thông qua sự can thiệp của Nhà nước, các quan hệ mua bán nợ được hình thành và phát triển theo những định hướng được Nhà nước đặt ra. Các quy định điều chỉnh quan hệ mua bán nợ chứa đựng những nội dung cơ bản sau đây:
Nhóm quy định về đối tượng mua bán
Khác với những giao dịch dân sự thông thường có đối tượng là tài sản, hàng hóa, giao dịch thương mại, cung ứng dịch vụ, thì đối tượng của quan hệ mua bán nợ là các khoản nợ còn tồn đọng, có thể coi đây là một loại quyền tài sản. Đây là một đối tượng đặc biệt vì nó chỉ phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, và người nợ vì lý do nào đó dẫn đến việc không thể thanh toán khoản nợ đúng thời hạn đã ký kết. Chính sự đặc biệt và mức độ rủi ro của các khoản nợ nên việc xây dựng và thực hiện các tiêu chí để phân loại và đánh giá các khoản nợ sẽ giúp cho các chủ thể có thể nắm rõ thực trạng của khoản vay, đưa ra giải pháp điều chỉnh phù hợp, hiệu quả.
Nhóm quy định về chủ thể mua bán nợ xấu
Bán bán nợ là chủ thể đang có khoản nợ không thể thu hồi và có nhu cầu muốn chuyển giao khoản nợ đó.
Bên mua nợ có thể là các cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu mua nợ xấu từ bên bán nợ và trở thành chủ sở hữu mới của khoản nợ. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì để trở thành bên mua nợ trong quan hệ mua bán nợ thì cần thỏa mãn những điều kiện sau đây: Là cá nhân, tổ chức trong nước hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài; Có năng lực hành vi dân sự hoặc có tư cách pháp nhân; Có năng lực tài chính, điều lệ quy định về vốn đối với các công ty kinh doanh hoạt động mua bán nợ xấu .
Khi tham gia vào quan hệ này, bên mua nợ hướng đến việc trở thành chủ sở hữu mới của khoản nợ , chấp nhận rủi ro mà khoản nợ mang lại. Tùy thuộc vào sự phát triển của thị trường mua bán nợ và thực trạng khoản nợ, hiện nay bên mua nợ gồm các chủ thể cơ bản sau đây:
– Công ty mua bán nợ chuyên nghiệp. Phạm vi hoạt động chủ yếu là tiếp nhận và xử lý nợ, tì sản. Mục tiêu chủ yếu của những công tý lớn này là cân bằng tình hình nợ tồn đọng trên thị trường, đồng thời tham gia mua bán nợ để tìm kiếm lợi nhuận.
– Công ty mua bán nợ do Nhà nước thành lập: Đây là công ty chuyên xử lý nợ xấu của các tổ chức tài chính trong nước mà có nhà nước góp vốn 100%, không mua các khoản nợ của cá nhân hay doanh nghiệp khác cũng như các tổ chức tài chính nước ngoài.
– Cá nhân và tổ chức có nhu cầu mua nợ: Đây là các chủ thể có năng lực tài chính và họ nhận thấy khả năng tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản nợ phát sinh. Tuy nhiên phải có đủ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ thì chủ thể này mới được trao quyền tham gia vào thị trường mua bán nợ.
Trong quan hệ mua bán nợ, bên nợ thường là các tổ chức, cá nhân không đủ khả năng chi trả khoản nợ đã vay theo đúng như thời hạn đã ký kết trong hợp đồng. Bên nợ không có quyền đồng ý hay phản đối việc xác lập và chuyển giao nghĩa vụ từ người chô vay sang bên mua nợ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi bên nợ đã có thỏa thuận với bên cho vay về việc không được mua bán nợ tại thời điểm giao kết hợp đồng cho vay, thì khoản vay đó sẽ không phải là đối tượng của quan hệ mua bán nợ giữa bên mua và bên bán. Vì vậy, có thể nói bên nợ giữ vai trò xác lập và thực hiện quan hệ mua bán nợ giữa bên bán và mua nợ.
Nhóm quy định về phương pháp xác định mua bán nợ xấu
Không giống như các tài sản thông thường khác, việc xác định giá của khoản nợ tương đối phức tạp, đòi hỏi chuyên môn và kỹ năng thẩm định. Trong một số trường hợp, khi không thể đánh giá được giá trị của khoản nợ thì phương án tốt nhất là đấu giá khoản nợ đó. Nếu trong quan hệ mua bán nói chúng, giá bán trong hợp đồng do các bên toàn quyền thỏa thuận với nhau và pháp luật không can thiệp vào thỏa thuận này của các bên, thì trong quan hệ mua bán nợ, việc xác định giá mua bán của khoản nợ không hề đơn giản và không phải trong trường hợp nào pháp luật cũng dành quyền tự do thỏa thuận do các bên. Để xác định giá mua bán nợ, pháp luật quy định hai phương pháp sau:
– Phương pháp định giá theo giá thị trường của khoản nợ. Đây là phương pháp cơ bản để xác định giá mua. Phương pháp này được sử dụng trong trường hợp giữa người bán nợ và các công ty mua bán nợ chuyên nghiệp, các tố chức cá nhân có như cầu mua nợ. Bởi vì quan hệ giữa các chủ thể này được xây dựng dựa trên sự bình đẳng và chia sẻ lợi ích, nên đây là phương pháp xác định giá tối ưu nhất cho quan hệ này
– Phương pháp định giá theo giá trị sổ sách. Phương pháp này được áp dụng chủ yếu với cơ quan hệ mua bán nợ có sự tham gia của bên mua nợ tập trung do Nhà nước thành lập. Phương pháp này không đòi hỏi các công ty, tổ chức mua nợ phải có nguồn vốn lớn như khi mua nợ theo giá trị của thị trường, bởi các công ty này sẽ thanh toán cho người bán nợ bằng trái phiếu đặc biệt do mình phát hành thay vì thanh tóa bằng tiền như ở phương pháp bên trên. Tuy nhiên để trái phiếu có giá trị thì đòi hỏi phải có sự bảo lãnh của Chính phủ hoặc ngân hàng trung ương.
Như vậy có thể thấy mỗi phương thức tính giá trị khoản nợ đều có những đặc thù riêng và được áp dụng trong các mối quan hệ nhất định.
Mời bạn xem thêm
- Mua nhà chung cư phải nộp thuế gì năm 2022?
- Xác định nơi xảy ra tội phạm như thế nào?
- Quy định về vay nợ lãi suất cao như thế nào năm 2022?
Thông tin liên hệ
Luật sư X sẽ đại diện khách hàng để giải quyết các vụ việc có liên quan đến vấn đề “Quy định pháp luật về mua bán nợ“ hoặc các dịch vụ khác liên quan như là tư vấn pháp lý về mẫu đơn xin trích lục khai tử. Với kinh nghiệm nhiều năm trong ngành và đội ngũ chuyên gia pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ hỗ trợ quý khách hàng tháo gỡ vướng mắc, không gặp bất kỳ trở ngại nào. Hãy liên lạc với số hotline 0833.102.102 để được trao đổi chi tiết, xúc tiến công việc diễn ra nhanh chóng, bảo mật, uy tín.
Câu hỏi thường gặp
– Đối với bên bán nợ, hoạt động mua bán nợ giúp người bán nợ nhanh chóng thu hồi lại khoản nợ mà không mât nhiều thời gian và công sức. Đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng, việc mua bán nợ có thể đưa tỷ lệ số nợ xấu trở về mức cân bằng. Trong bối cảnh hiện nay thì việc mua bán nợ xấu được coi là giải pháp tối ưu để giải quyết tình trạng bế tắc thu hồi lại tiền và xử lý nợ tồn đọng.
– Đối với bên mua nợ, thì đây là lĩnh vực kinh doanh mới, giúp họ kiếm và thu hồi được lợi nhuận cao. Mặc dù tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro vì khả năng thu hồi lại khoản nợ là không được đảm bảo, nhưng bù lại thu hồi nợ lại có thể mang về lợi nhuận rất lớn cho bên mua nợ.
Trong quan hệ mua bán nợ thường được thanh toán bằng các công cụ sau đây:
-Thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt do bên mua nợ phát hành. Như đã phân tích ở trên thì công cụ này chỉ được áp dụng đối với quan hệ mua bán có sự xuất hiện của bên mua nợ tập trung Nhà nước. Tuy nhiên để đảm bảo hiệu quả của công cụ thanh toán này cần có chính sách hỗ trợ của Ngân hàng và bảo lãnh của Chính phủ đối với loại trái phiếu này.
-Thanh toán bằng tiền. Đây là công cụ mua bán phổ biến trong quan hệ mua bán nói chung và mua bán nợ nói riêng. Theo đó, khi bên bán nợ bán cho bên mua nợ, người bán sẽ được thanh toán trực tiếp bằng tiền của bên mua, chứ không phải bằng trái phiếu. Loại công cụ thanh toán này đòi hỏi bên mua có năng lực tài chính, bên cạnh đó cần các điều kiện khác của khoản nợ như: Khoản nợ có khả năng thu hồi vốn cao; Tài sản đảm bảo có khả năng phát mại cao; Người nợ phát sinh thu nhập, có tài sản riêng, đối với tổ chức thì hoạt động kinh doanh trên báo cáo tài chính được thẩm định là có lãi.
Phương pháp mua bán là cách thức để tiến hành giao dịch của các bên. Thường thì cách thức này sẽ do các bên thỏa thuận nhằm tối đa hóa lợi nhuận quyền lợi và hạn chế các rủi ro có thể phát sinh. Trong pháp luật quy định có hai phương pháp mua bán chủ yếu sau đây:
-Phương pháp mua bán nợ thông qua cơ chế thỏa thuân. Theo phương thức này không chỉ cách thức mà còn về giá cả sẽ đều được xác lập thống nhất về mặt ý chí giữa các bên. Thông qua phương pháp này, quan hệ mua bán giữa người bán và người mua cũng sẽ nhanh chóng được ký kết và khoản nợ cũng nhờ đó mà nhanh chóng được giải quyết.
-Phương pháp mua bán thông qua đấu giá. Đây được xem là phương thức khá phổ biến trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Thông qua thủ tục đấu giá, các khoản nợ được định giá một cách khách quan và sát với giá trị thực của khoản nợ đó.