Từ lâu, pháp luật Việt Nam đã quy định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong lĩnh vực pháp luật dân sự, kinh tế và hành chính. Tuy nhiên, chỉ đến khi ban hành Bộ luật Hình sự 2015, trách nhiệm hình sự của pháp nhân mới được quy định rõ ràng. Bởi lẽ, trên thực tế có rất nhiều pháp nhân có những hành vi đặc biệt gây nguy hiểm cho xã hội, phạm những tội theo quy định của pháp luật hình sự. Vậy pháp nhân thương mại phạm tội là gì? Cơ sở pháp lý trực tiếp để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại là gì? Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự trong phạm vi nào? Quy định của pháp luật về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại ra sao? Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội như thế nào? Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu qua bài viết sau đây nhé! Hy vọng quý bạn đọc sẽ biết thêm được nhiều kiến thức hữu ích qua bài viết này.
Căn cứ pháp lý
Pháp nhân là gì?
Trong Bộ luật hình sự không quy định như thế nào được gọi là pháp nhân hay pháp nhân thương mại. Nhưng theo quy định tại chương IV của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về pháp nhân và pháp nhân thương mại như sau:
Pháp nhân được quy định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015:
Điều 74. Pháp nhân
1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
2. Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Pháp nhân thương mại là gì?
Pháp nhân thương mại theo điều 75 quy định như sau:
Điều 75. Pháp nhân thương mại
1. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.
2. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
3. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều kiện của pháp nhân thương mại
Theo như điều 75 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Pháp nhân thương mại là pháp nhân có đầy đủ điều kiện của pháp nhân theo điều 74 nhưng mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.
Theo đó, điều kiện của pháp nhân thương mại như sau:
Thứ nhất, Được thành lập theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, cũng như luật khác có liên quan. Ví dụ Luật doanh nghiệp, Luật thương mại…
Thứ hai, pháp nhân thương mại phải có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật dân sự năm 2015;
Theo Điều 83 quy định:
Điều 83. Cơ cấu tổ chức của pháp nhân
1. Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
2. Pháp nhân có cơ quan khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
Thứ tư, nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập;
Thứ năm, mục tiêu chính của pháp nhân thương mại là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên;
Thứ sáu, Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
Cơ sở pháp lý trực tiếp để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại
Thứ nhất, nếu pháp nhân thương mại phạm tội chúng ta cần dựa vào các nguyên tắc nhất định để xử lý pháp nhân này.
Theo Điều 3 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 pháp nhân thương mại bị xử lý theo các nguyên tắc sau:
– Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;
– Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;
– Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
– Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.
Thứ hai, Cơ sở pháp lý: Điều 74 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Điều 74. Áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.
Khi một pháp nhân thương mại phạm tội, pháp nhân đó sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại chương XI này. Trong chương này quy địnhn về các hình phạt của pháp nhân, những tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; miễn hình phạt, xóa án tích…
Hơn nữa, Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này.
Pháp nhân thương mại phạm tội là gì?
Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực Trách nhiệm hình sự hoặc Pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Như vậy, định nghĩa pháp nhân thương mại phạm tội dưới góc độ khoa học hình sự có thể hiểu là là chủ thể pháp nhân thương mại thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến khách thể được Bộ luật Hình sự ghi nhận, bảo vệ mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Nó có thể gây tổn hại đến nền kinh tế và sự an toàn của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp hay chính phủ quốc gia nào đó. Thường các hoạt động tội phạm này thông qua các dạng như lũng đoạn về giá cả, trốn thuế hay sản xuất các sản phẩm dịch vụ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, sức khỏe, tính mạng của các đối tượng tiêu dùng.
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có quy định mới về kiểu tội phạm là pháp nhân thương mại: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Có thể thấy, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam, quy định về cơ sở trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại đã được ghi nhận, đồng thời đây chính là “tuyên bố” mang tính nền tảng, tiền đề để các nhà làm luật quy định những vấn đề khác trong nội dung trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Nhấn mạnh hơn, về vấn đề này, rõ ràng “hành vi, lỗi của người lãnh đạo, chỉ huy, người đại diện cũng được coi là hành vi, lỗi của pháp nhân. Như vậy, lý thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm được các nhà lập pháp Việt Nam quy định là cơ sở quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại” .
Quy định của pháp luật về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
– Cơ sở pháp lý: Điều 75 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. quy định như sau:
Điều 75. Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;
d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.
2. Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.
a. Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại
Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại là hành vi của một người hoặc một số người đang thuộc biên chế của tổ chức kinh tế ( doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác) mà theo pháp luật thì tổ chức kinh tế này là pháp nhân thương mại. Nếu họ không phải trong tổ chức kinh tế được công nhận là pháp nhân thương mại thì hành vi phạm tội của họ không phải là hành vi của pháp nhân thương mại.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay nếu một người được pháp nhân thương mại ký hợp đồng hay uỷ quyền lại để thực hiện nhiệm vụ do pháp nhân thương mại giao cho và khi thực hiện họ đã nhân danh pháp nhân thương mại để ký hợp đồng hoặc uỷ quyền cho họ thì hành vi phạm tội của người này vẫn là hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại mà họ ký hợp đồng hoặc được uỷ quyền.
b. Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại.
Khi một người hoặc một số người họ nhân danh pháp nhân thương mại; thực hiện hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại giao hoặc uỷ quyền đều vì lợi ích của pháp nhân thương mại chứ không vì lợi ích cá nhân của họ.
Ngược lại, nếu trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội họ lại lợi dụng pháp nhân thương mại, nhan danh pháp nhân thương mại để thực hiện thêm hành vi vi phạm pháp luật hình sự nói riêng vì lợi ích cá nhân thì chỉ hành vi nào vì lợi ích của pháp nhân thương mại mới buộc pháp nhân thương mại phải chịu, còn hành vi nào vượt ra ngoài lợi ích của pháp nhân thương mại mà vì lợi ích cá nhân họ thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Ví dụ: A nhân danh Công ty X lái xe đi ký hợp đồng với công ty Y. Nhưng A đã không đi dúng vào con đường đi tới công ty Y để ký hợp đồng mà A lái xe đi đón người yêu đi ăn nhân tiện còn sớm rồi gây tai nạn cho C chết. Trường hợp này A tự chịu trách nhiệm hành vi phạm tội của mình.
c. Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại.
Hành vi phạm tội của một hoặc một số người phải có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại. Sự chỉ đạo điều hành là sự chỉ đạo của những người đứng đầu hoặc của một tập thể pháp nhân thương mại như: Giám đốc, Tổng giám đốc, Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc của công ty…
Sự chỉ đạo, điều hành cũng tương tự như trường hợp phạm tội có tổ chức mà người tổ chức là người chỉ đạo điều hành mọi hành vi của tất cả các đồng phạm khác. Ngoài sự chỉ đạo, điều hành của những người nhân danh pháp nhân thương mại còn có trường hợp tuy không có sự chỉ đạo, điều hành nhưng lại có sự chấp thuận của những người đứng đầu pháp nhân thương mại thì hành vi phạm tội cũng là hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại.
d. Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 tuỳ thuộc vào tội phạm mà pháp nhân thương mại thực hiện.
Theo đó khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau:
Điều 27. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
c) 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
d) 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.
Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự trong phạm vi nào?
– Cơ sở pháp lý: Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Điều 76. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm quy định tại một trong các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300 và 324 của Bộ luật này.
Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về pháp nhân thương mại như sau:
“1. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.2. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.3. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.“
Theo quy định của điều 76 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đối với những tội danh sau:
Điều 188: tội buôn lậu;
Điều 189 tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới;
Điều 190 tội sản xuất, buôn bán hàng cấm;
Điều 191 tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm;
Điều 192 tội sản xuất, buôn bán hàng giả;
Điều 193 tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm;
Điều 194 tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh;
Điều 195 Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi;
Điều 196 tội đầu cơ;
Điều 200 tội trốn thuế;
Điều 203 tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ;
Điều 209 tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán;
Điều 210 tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán;
Điều 211 tội thao túng thị trường chứng khoán;
Điều 213 tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm;
Điều 216 tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động;
Điều 217 tội vi phạm quy định về cạnh tranh;
Điều 225 tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan;
Điều 226 tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp;
Điều 227 Tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên;
Điều 232 Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản;
Điều 234 Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã;
Điều 235 Tội gây ô nhiễm môi trường;
Điều 237 tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường;
Điều 238 tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông;
Điều 239 tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam;
Điều 242 tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản;
Điều 243 tội huỷ hoại rừng;
Điều 244 tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm;
Điều 245 tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên;
Điều 246 tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại;
Điều 300 tội tài trợ khủng bố;
Điều 324 tội rửa tiền.
=> Vậy với điều luật trên điều luật đã liệt kê các tội mà pháp nhân thương mại có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
Theo quy định về pháp nhân thương mại thì mọi doanh nghiệp đều là pháp nhân thương mại (ngoài ra còn bao gồm các tổ chức kinh tế có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận). Do đó, chủ thể không phải là con người, nên các hình phạt đối với pháp nhân thương mại cũng không thể như con người được. Nhà nước chỉ có thể đóng cửa một công ty; đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với một doanh nghiệp; cấm doanh nghiệp kinh doanh hoặc phạt tiền đối với một doanh nghiệp, chứ không thể bỏ tù hoặc cải tạo không giam giữ đối với một công ty hay một doanh nghiệp.
Vì vậy, Nhà nước đã đề ra hình phạt đối với pháp nhân thương mại cũng chủ yếu nhằm tạo ra môi trường kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế theo quy định của pháp luật. Điều 33 Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung 2017) có quy định về các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội như sau:
“1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Phạt tiền;
b) Đình chỉ hoạt động có thời hạn;
c) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định;
b) Cấm huy động vốn;
c) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.
3. Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.”
Như vậy, Theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành thì pháp nhân thương mại phạm tội có thể bị áp dụng các hình phạt sau:
a) Đối với hình phạt chính bao gồm:
Phạt tiền đối với pháp nhân thương mại:
Được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000 đồng. Nếu Tòa án áp dụng hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại là hình phạt chính thì không được áp dụng hình phạt này là hình phạt bổ sung nữa.
Tuy nhiên, nếu Tòa án áp dụng hình phạt khác (không phải là tiền) là hình phạt chính thì có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại. Nếu Tòa án áp dụng hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại là phạt tiền thì phải căn cứ vào khung hình phạt tiền đối với tội phạm mà pháp nhân thương mại bị kết án để xác định mức tiền phạt cụ thể.
Đình chỉ hoạt động có thời hạn:
Là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế.
Căn cứ vào nội dung quy định trên thì pháp nhân thương mại có thể bị Tòa án đình chỉ hoạt động một hoặc một một số lĩnh vực chứ không đình chỉ toàn bộ hoạt động và các lĩnh vực này pháp nhân thương mại có khả năng khắc phục.
Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn:
Được hiểu là chấm dứt hoàn toàn hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây nên những thiệt hại hoặc chủ thể này có khả năng thực tế gây thiệt hại nghiêm trọng có ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra. Ví dụ như, liên quan đến tính mạng của nhiều người, gây ra những sự cố môi trường như ô nhiễm môi trường…
Cũng tương tự như trường hợp đình chỉ hoạt động có thời hạn được trình bày ở trên, về nhiệm vụ quyền hạn theo chức năng trong trường hợp pháp nhân thương mại chỉ phạm tội có liên quan đến một hoặc một số lĩnh vực, Tòa án chỉ được phép đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong một hoặc một vài lĩnh vực chứ không được phép đình chỉ toàn bộ những lĩnh vực.
Khi áp dụng hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn có nghĩa là bắt buộc phải chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực pháp nhân thương mại phạm tội. Theo đó, Tòa án cần có căn cứ rõ ràng vào thiệt hại pháp nhân thương mại gây ra hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến các lĩnh vực bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
b) Đối với hình phạt bổ sung bao gồm:
– Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định:
Cùng với hình phạt chính theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể áp dụng hình phạt bổ sung, bao gồm cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực khi nhận thấy nếu để pháp nhân thương mại bị kết án tiếp tục hoạt động kinh doanh buôn bán trong lĩnh vực đó, thì có thể gây nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người hoặc xã hội.
Khi đó, Tòa án phải nói rõ trong bản án là cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nào, chứ không thể tuyên chung chung là cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định được. Cho dù Tòa án có áp dụng hình phạt chính là đình chỉ hoạt động có thời hạn hay đình chỉ hoạt động vĩnh viễn một hoặc một số lĩnh vực thì việc cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định cũng chỉ tối đa trong thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, chứ không được cấm vĩnh viễn với lí do đây là hình phạt bổ sung đi kèm với hình phạt chính.
– Cấm huy động vốn:
Trong trường hợp nếu để pháp nhân thương mại bị kết án huy động vốn thì có nguy cơ tiếp tục phạm tội thì Tòa án áp dụng đây là hình phạt bổ sung. Các hình thức cấm huy động vốn theo quy định bao gồm:
+ Cấm vay vốn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc quỹ đầu tư;
+ Cấm phát hành, chào bán chứng khoán; cấm huy động vốn khách hàng;
+ Cấm liên doanh, liên kết trong và ngoài nước;
+ Cấm hình thành quỹ tín thác bất động sản.
Như vậy Tòa án có thể quyết định áp dụng một hoặc một số hình thức cấm huy động vốn như trên. Điều kiện quy định thời hạn cấm huy động vốn cũng chỉ từ 1 năm đến 3 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, vì đây là hình phạt bổ sung.
– Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính:
Tòa án được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung theo quy định của pháp luật. Theo đó, Tòa án không áp dụng hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm tội là phạt tiền.
Trường hợp nếu đã áp dụng hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm tội là phạt tiền thì không được áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Mức phạt tiền đối với loại chủ thể này cũng phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả.
Tuy nhiên, không được thấp hơn 50.000.000 đồng (tương tự như đối với hình phạt chính). Cũng tương tự như đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội thì với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.
Mời bạn xem thêm bài viết
- Pháp nhân có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
- Xử phạt hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử
- Hình phạt chính đối với người phạm tội về ma túy
Khuyến nghị
Với đội ngũ nhân viên là các luật sư, luật gia và chuyên viên pháp lý của Luật sư X, chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý toàn diện về vấn đề luật thương mại đảm bảo chuyên môn và kinh nghiệm thực tế. Ngoài tư vấn online 24/7, chúng tôi có tư vấn trực tiếp tại các trụ sở Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bắc Giang.
Thông tin liên hệ
Luật sư X đã cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến vấn đề “Pháp nhân thương mại phạm tội là gì?“. Ngoài ra, chúng tôi có hỗ trợ dịch vụ pháp lý khác liên quan đến vấn đề tư vấn pháp lý về vấn đề xác nhận tình trạng độc thân. Hãy nhấc máy lên và gọi cho chúng tôi qua số hotline 0833.102.102. để được đội ngũ Luật sư, luật gia giàu kinh nghiệm tư vấn, hỗ trợ, đưa ra giải đáp cho quý khách hàng.
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Điều 84, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại như sau:
Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
d) Tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
đ) Có nhiều đóng góp trong việc thực hiện chính sách xã hội.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Điều 85, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại như sau:
Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
a) Câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội;
b) Cố ý thực hiện tội phạm đến cùng;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
e) Dùng thủ đoạn tinh vi để phạm tội hoặc nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.
Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.
Điều 86, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm nhiều tội như sau:
Khi xét xử cùng 01 lần pháp nhân thương mại phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:
Đối với hình phạt chính:
a) Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung. Hình phạt tiền không tổng hợp với các hình phạt khác;
b) Nếu các hình phạt đã tuyên là đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong cùng lĩnh vực hoặc hình phạt đã tuyên cùng là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong cùng lĩnh vực thì hình phạt chung là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong lĩnh vực đó;
c) Nếu các hình phạt đã tuyên là đình chỉ hoạt động có thời hạn trong cùng lĩnh vực thì được tổng hợp thành hình phạt chung nhưng không vượt quá 04 năm;
d) Nếu trong số các hình phạt đã tuyên có hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 79 của Bộ luật này (Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động) thì hình phạt chung là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn đối với toàn bộ hoạt động;
đ) Nếu các hình phạt đã tuyên là đình chỉ hoạt động có thời hạn trong các lĩnh vực khác nhau hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong các lĩnh vực khác nhau hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong các lĩnh vực khác nhau thì không tổng hợp.
Đối với hình phạt bổ sung:
a) Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền được cộng lại thành hình phạt chung;
b) Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì pháp nhân thương mại bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.