Kính chào Luật sư. Tôi thấy tình hình bạo hành gia đình hiện nay đang rất nóng, mỗi lần tôi mở trang báo mạng lên đọc là lại thấy có nhiều vụ án, vụ việc liên quan đến bạo lực gia đình trở nên nghiêm trọng ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Trong trường hợp này, làm cách nào để nhận diện và tố cáo hành vi bạo hành để bảo vệ bản thân cũng như những người xung quanh? Biện pháp phòng ngừa bạo lực hiện nay được pháp luật triển khai như thế nào? Mong Luật sư đưa ra ý kiến giải đáp. Tôi xin cảm ơn.
Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Để giải đáp thắc mắc của mình; mời bạn tham khảo bài viết “Những hành vi nào được coi là hành vi bạo lực gia đình?” dưới đây của Luật sư X nhé.
Căn cứ pháp lý
- Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007
- Nghị định 08/2009/NĐ-CP
Quy định pháp luật 2022 về hành vi bạo lực gia đình được coi là những hành vi nào?
Theo Khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007 quy định: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.”
Hành vi đó được thể hiện cụ thể tại Điều 2 Luật này như sau:
- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Nguyên nhân của bạo lực gia đình
- Từ nhận thức của mỗi người
Bất bình đẳng giới được xem là nguyên nhân gốc rễ gây ra bạo lực trong gia đình. Xã hội vẫn tồn tại những quan niệm bất bình đẳng giới trong gia đình như định kiến giới, tư tưởng trọng nam khinh nữ. Trong gia đình, người phụ nữ có vị thế và quyền lực không ngang bằng với nam giới, không có quyền tham gia vào các quyết định trong gia đình, vì thế bạo hành phụ nữ, bạo hành trẻ em trong gia đình ngày càng gia tăng. Cộng đồng và xã hội vẫn coi bạo lực gia đình là vấn đề riêng tư trong mỗi gia đình và xã hội không nên can thiệp.
Trẻ em khi chứng kiến bạo lực gia đình tạo thành tâm lý cam chịu khi lớn lên và vô tình hình thành suy nghĩ cho rằng bạo hành gia đình như một biện pháp cần thiết để giải quyết mâu thuẫn gia đình. Và sau này lớn lên không tránh khỏi những suy nghĩ tiêu cực và lặp lại những hành vi của người lớn.
Nhiều người với trình độ nhận thức và sự hiểu biết về pháp luật còn thấp nên cho rằng cha mẹ có quyền đánh đập, chửi mắng con cái, chồng có quyền đánh vợ…Nhiều phụ nữ, người già cũng không nhận thức được đầy đủ quyền của mình nên không dám đấu tranh mà cam chịu bạo lực. Ngay cả những gia đình mà thành viên có trình độ học vấn cao, am hiểu về pháp luật thì bạo lực gia đình cũng vẫn xảy ra.
- Từ nền kinh tế
Khó khăn về kinh tế là một trong những nguyên nhân dẫn tới bạo lực gia đình vì khó khăn về kinh tế thường tạo ra các áp lực, căng thẳng, bế tắc đối với thành viên gia đình và do đó dễ dẫn tới các mâu thuẫn, tranh chấp nếu không biết cách xử lý phù hợp có thể gây nên bạo lực gia đình. Tuy nhiên không phải cứ có khó khăn về kinh tế là nhất thiết phải có bạo lực gia đình. Thực tế cho thấy nhiều gia đình có mức sống, thu nhập thấp nhưng gia đình vẫn hòa thuận và ngược lại có những gia đình khá giả nhưng bạo lực vẫn xảy ra.
- Từ tệ nạn xã hội
Các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, nghiện hút, mại dâm…là những nguyên nhân trực tiếp dẫn tới bạo lực gia đình.Thống kê cho thấy 60% nạn bạo hành gia đình xảy ra sau khi người chồng uống rượu hay dùng các chất kích thích. Các chất kích thích làm giảm sự kiềm chế cũng như nhận thức của bản thân phán đoán đúng sai từ đó dẫn đến trạng thái dễ nóng nảy, cau có khó chịu. Lúc đó, chuyện nhỏ cũng hóa thành chuyện lớn và các thành viên trong gia đình dễ dàng xung đột với nhau hơn.
- Từ công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng chống bạo lực gia đình
Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định về các hành vi bị coi là bạo lực gia đình và các biện pháp xử lý hành vi gây ảnh hưởng tới chủ thể khác. Bên cạnh các chế tài áp dụng theo quy định của nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này thì bạo hành gia đình nếu để lại hậu quả nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị áp dụng chế tài hình sự. Tuy nhiên, việc xử lý hành vi này trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt với những trường hợp hành vi không rõ ràng hoặc nạn nhân, người chứng kiến không dám lên tiếng tố giác hành vi đó.
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình còn hạn chế. Chính quyền và các tổ chức đoàn thể chưa hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình trong phòng chống bạo lực gia đình. Một bộ phận lãnh đạo chính quyền và các tổ chức đoàn thể vẫn coi bạo lực gia đình là vấn đề riêng của mỗi gia đình.
Đồng thời, chưa xử lý triệt để các vụ việc bạo lực gia đình xảy ra tại địa phương. Chính quyền chỉ vào cuộc với những vụ bạo lực gia đình có hậu quả nghiêm trọng khi nạn nhân hoặc người nhà nạn nhân có đơn kêu cứu. Trong công tác hòa giải, thường khuyên phụ nữ nín nhịn mà không triệt để xử lý theo pháp luật người gây bạo lực gia đình.
Biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình
1. Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình
– Thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:
+ Chính xác, rõ ràng, đơn giản, thiết thực;
+ Phù hợp với từng đối tượng, trình độ, lứa tuổi, giới tính, truyền thống, văn hóa, bản sắc dân tộc, tôn giáo;
+ Không làm ảnh hưởng đến bình đẳng giới, danh dự, nhân phẩm, uy tín của nạn nhân bạo lực gia đình và các thành viên khác trong GĐ.
– Nội dung thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình gồm:
+ Chính sách, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, bình đẳng giới, quyền và nghĩa vụ của các thành viên GĐ
+ Truyền thống tốt đẹp của con người, GĐ Việt Nam
+ Tác hại của bạo lực gia đình.
+ Biện pháp, mô hình, kinh nghiệm trong phòng, chống bạo lực gia đình.
+ Kiến thức về hôn nhân và GĐ; kỹ năng ứng xử, xây dựng GĐ văn hoá.
+ Các nội dung khác có liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình.
– Hình thức thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình là:
+ Thực hiện trực tiếp.
+ Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Lồng ghép trong việc giảng dạy, học tập tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
+ Thông qua hoạt động văn học, nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng và các loại hình văn hoá quần chúng khác.
2. Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên GĐ
– Nguyên tắc hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên GĐ:
+ Kịp thời, chủ động, kiên trì.
+ Phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
+ Tôn trọng sự tự nguyện tiến hành hòa giải của các bên.
+ Khách quan, công minh, có lý, có tình.
+ Giữ bí mật thông tin đời tư của các bên.
+ Tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.
– Không hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên GĐ trong những trường hợp sau đây:
+ Vụ việc thuộc tội phạm hình sự, trừ trường hợp người bị hại yêu cầu không xử lý theo quy định của pháp luật hình sự.
+ Vụ việc thuộc hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý hành chính.
3. Biện pháp tư vấn, góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư
– Tư vấn về GĐ bao gồm các nội dung sau đây:
+ Cung cấp thông tin, kiến thức, pháp luật về hôn nhân, GĐ và phòng, chống bạo lực gia đình;
+ Hướng dẫn kỹ năng ứng xử trong GĐ; kỹ năng ứng xử khi có mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên GĐ.
– Đối tượng tư vấn về GĐ Căn cứ Khoản 3 Điều 16 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007 bao gồm:
+ Người có hành vi bạo lực gia đình; nạn nhân bạo lực gia đình; người nghiện rượu, ma túy, đánh bạc, người chuẩn bị kết hôn.
+ Việc góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên có hành vi bạo lực gia đình đã được tổ hòa giải ở cơ sở hoà giải mà tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình.
4. Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình
– Điều 26 của Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 về “Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình” quy định:
“1. Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình là nơi chăm sóc, tư vấn, tạm lánh, hỗ trợ những điều kiện cần thiết khác cho nạn nhân bạo lực gia đình.
2. Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình bao gồm:
a) Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;
b) Cơ sở bảo trợ xã hội;
c) Cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình;
d) Cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình;
đ) Địa chỉ tin cậy ở cộng đồng.”
– Theo Điều 13 của Nghị định 08/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo lực gia đình thì:
“1. Hoạt động trợ giúp nạn nhân BLGĐ là hoạt động nhân đạo, không vì mục đích lợi nhuận nhằm giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, bao gồm:
a. Chăm sóc sức khoẻ; chăm sóc y tế;
b. Tư vấn pháp luật; tư vấn tâm lý;
c. Cung cấp nơi tạm lánh trong trường hợp nạn nhân bạo lực gia đình không có chỗ ở khác, nhằm tránh những hành vi bạo lực tiếp theo của người gây BLGĐ;
d. Hỗ trợ một số nhu cầu thiết yếu cho nạn nhân bạo lực gia đình trong trường hợp nạn nhân bạo lực gia đình không tự lo được hoặc không có sự hỗ trợ từ người thân, bạn bè. Hỗ trợ nhu cầu thiết yếu bao gồm cung cấp đồ ăn, nước uống, cung cấp hoặc cho mượn quần áo, chăn màn và các đồ dùng thiết yếu khác.
2. Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện cho các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình hoạt động.
3. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc bảo vệ cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình trong trường hợp cần thiết.”
Có thể bạn quan tâm
- Tội vu khống người khác bị phạt như thế nào?
- Sử dụng hình ảnh cá nhân để xúc phạm danh dự có bị đi tù không?
- Xử lý hành chính hành vi hủy hoại tài sản
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật Sư X về vấn đề. “Những hành vi nào được coi là hành vi bạo lực gia đình?“. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên. Nhằm để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn; giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến thành lập công ty; tạm dừng công ty, mẫu đơn xin giải thể công ty; giấy phép bay flycam, thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất, đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, kết hôn với người Nhật Bản…. của luật sư X. Hãy liên hệ: 0833 102 102.
Hoặc qua các kênh sau:
- FB: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Theo Điều 11. Chi phí khám và điều trị cho người bệnh là nạn nhân bạo lực gia đình tại Thông tư 27/2017/TT-BYT
1. Chi phí cho việc khám và điều trị đối với nạn nhân bạo lực gia đình do Quỹ bảo hiểm y tế chi trả đối với người có bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế.
2. Chi phí khám và điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho nạn nhân bạo lực gia đình không có bảo hiểm y tế do nạn nhân hoặc gia đình tự chi trả. Khuyến khích các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh xem xét miễn giảm chi phí khám và điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho nạn nhân bạo lực gia đình có hoàn cảnh khó khăn không có khả năng tự chi trả.
Tại Điều 8. Phát hiện hành vi bạo lực gia đình có dấu hiệu tội phạm Thông tư 27/2017/TT-BYT
1. Trong quá trình tiếp nhận, sàng lọc và chăm sóc y tế cho người bệnh, nếu phát hiện hành vi bạo lực gia đình có dấu hiệu tội phạm được quy định tại Điều 2 và Điều 8 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình thì thầy thuốc và nhân viên y tế có trách nhiệm báo cáo người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
2. Người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có trách nhiệm trình báo bằng văn bản, điện thoại hoặc cử người trực tiếp đi trình báo cho cơ quan công an nơi gần nhất hoặc nơi người bệnh cư trú về hành vi bạo lực gia đình có dấu hiệu tội phạm và đề nghị cơ quan công an có biện pháp hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho nạn nhân bạo lực gia đình.
Đối với hành vi này có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng quy định tại Điểm a Khoản 2 nghị định 144/2021/NĐ-CP Ngoài ra Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu.