Luật phá sản năm 2014 đã được thông qua ngày 19/6/2014 tại kì họp thứ 7 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015 và thay thế Luật phá sản năm 2004. Có thể thấy, LPS năm 2014 mặc dù đã có nhiều thay đổi so với LPS năm 2004 nhưng vẫn ít được áp dụng trong thực tiễn. Do vậy các cơ quan lập pháp, cơ quan thực thi pháp luật và các cơ quan liên quan cần nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc, bất cập ảnh hưởng đến tính thực thi của luật, để phá sản với tính chất là thủ tục đòi nợ đặc thù không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ nợ mà còn bảo về quyền và lợi ích cho các DN, HTX mắc nợ. Trong bài viết dưới đây, Luật sư X sẽ giúp bạn đọc giải đáp vấn đề Luật phá sản 2014 không áp dụng với trường hợp nào?
Định nghĩa về phá sản
Dưới góc độ pháp lý, phá sản là hiện tượng con nợ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thường là Toà án) tuyên bố phá sản và phân chia tài sản còn lại của con nợ cho các chủ nợ theo thủ tục pháp luật quy định.
Thuật ngữ phá sản được hình thành từ thời La Mã cổ đại, bắt nguồn từ chữ “zuin” trong tiếng Latinh có nghĩa là sự khánh tận – tức là mất khả năng thanh toán.
Ở Việt Nam, thuật ngữ này được biết đến từ thời kỳ Pháp thuộc do người Pháp mang sang Việt Nam cùng với quá trình thực dân hoá.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thuật ngữ này dường như không được biết đến. Pháp luật phá sản và thuật ngữ phá sản chỉ thực sự được sử dụng trở lại kể từ khi có sự chuyển đổi cơ chế kinh tế sang cơ chế thị trường theo đó hiện tượng phá sản dưới tác động- của cạnh tranh trở thành hiện tượng bình thường và tất yếu.
Năm 1990 cùng với sự ra đời của Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty, thuật ngữ phá sản đã chính thức được sử dụng trong pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, do phá sản là vấn đề rất mới nên các đạo luật này chỉ quy định rất đơn giản về điều kiện phá sản trong một điều luật duy nhất. Thủ tục phá sản và nhiều vấn đề khác liên quan đến việc giải quyết phá sản chưa được quy định cụ thể. Chính vì thế, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã được ban hành để lấp khoảng trống pháp luật kể trên. Sau hơn 10 năm thực thi, đạo luật phá sản đầu tiên kể trên của Việt Nam đã bộc lộ những điểm bất cập, không phù hợp với thực tế, đòi hỏi có sự sửa đổi, bổ sung kịp thời. Đáp ứng yêu cầu này, Luật phá sản cũ năm 2004 đã được ban hành để thay thế cho Luật phá sản doanh nghiệp cũ năm 1993.
Thuật ngữ phá sản tuy được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ hàng ngày và trong khoa học pháp lý song cho đến nay vẫn chưa được chính thức giải thích trong các văn bản pháp luật về phá sản ở nước ta. Thay vào đó, thuật ngữ “tình trạng phá sản” được sử dụng và giải thích.
Luật phá sản 2004 tiếp tục quy định đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật khi lâm vào tình trạng phá sản. Riêng đối với các doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh, doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công thiết yếu, việc áp dụng Luật phá sản sẽ do Chính phủ quy định cụ thể. Quy định này hàm ý rằng do vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của các doanh nghiệp này, việc áp dụng Luật phá sản cần được điều chỉnh bằng những quy tắc có tính ngoại lệ, phù hợp với đặc thù của các doanh nghiệp ấy.
Hiện nay, ở Việt Nam đang áp dụng Luật phá sản năm 2014 số 51/2014/QH13.
Luật phá sản hiện hành (Luật phá sản năm 2014) định nghĩa về phá sản tại Khoản 2, Điều 4 cụ thể như sau:
“2. Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”.
Tại sao nói phá sản là hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường ?
Trong nền kinh tế tự cúng tự cấp, con người làm ra sản phẩm để tự phục vụ, tự đáp ứng cho nhu cầu của mình nên hoạt động thương mại chưa tồn tại và do đó không thể có hiện tượng phá sản.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở Việt Nam, chủ thể kinh tế chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh được Nhà nước thành lập và tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Các doanh nghiệp này không có quyền chủ động trong hoạt động kinh doanh, mọi hoạt động trong quá trình kinh doanh từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm đều theo kế hoạch của Nhà nước và cũng không có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Lúc bấy giờ, nếu doanh nghiệp kinh doanh có lãi thì nộp vào ngân sách nhà nước, ngược lại nếu thua lỗ thì được Nhà nước bù lỗ. Các xí nghiệp, hợp tác xã trong thời kì này hoạt động kém hiệu quả, dưới dạng lãi giả lỗ thật, nợ nần chồng chất, Nhà nước luôn phải giúp đỡ các doanh nghiệp bằng cách khoanh nợ, hoãn nợ, xoá nợ… hoặc sử dụng các giải pháp mang tính chất hành chính như sáp nhập, giải thể để chấm dứt hoạt động của chúng.
Như vậy, doanh nghiệp quốc doanh hay hợp tác xã trong nền kinh tế bao cấp không thể bị mất khả năng thanh toán và hiện tượng phá sản cũng không xảy ra.
Trong nền kinh tế thị trường, phá sản doanh nghiệp là hiện tượng kinh tế – xã hội tồn tại khách quan. Tính tất yếu khách quan của hiện tượng phá sản doanh nghiệp được lý giải bằng những lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, về thực chất doanh nghiệp cũng chỉ là thực thể xã hội và như vậy, cũng như các thực thể xã hội khác, doanh nghiệp cũng có quá trình sinh ra, phát triển và diệt vong. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn của các sự vật, hiện tượng.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường với đa hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, đa thành phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp cùng song song tồn tại. Các loại hình doanh nghiệp (trong đó có cả doanh nghiệp nhà nước) đều tự chủ về tài chính, bình đẳng và tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Trong nền kinh tế đó, cạnh tranh là một quy luật kinh tế khách quan. Dưới sự tác động của quy luật cạnh tranh, một số doanh nghiệp mạnh dần lên chiếm lĩnh thị trường, ngược lại, một số doanh nghiệp khác dần yếu đi, sản xuất kinh doanh đình đốn, nợ nần chồng chất, đi tới chỗ mất khả năng chi trả các nghĩa vụ tài chính của mình và thực chất đã lâm vào tình trạng phá sản.
Thứ ba, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, cái mà doanh nghiệp thu được đó là lợi nhuận nhưng đồng thời doanh nghiệp cũng phải chịu những rủi ro. Trong kinh doanh, tỉ lệ rủi ro là rất lớn. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới, tỉ lệ rủi ro là 1/4, có nghĩa là cứ đầu tư thành lập 100 doanh nghiệp thì sẽ có khoảng 25 doanh nghiệp bị phá sản. Thậm chí có những doanh nghiệp bị phá sản ngay sau khi mới được thành lập. Nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp là hết sức đa dạng. Có thể là do sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất – kinh doanh; là sự thiếu khả năng thích ứng. với những biến động trên thương trường; là sự vi phạm các chế độ thể lệ quản lý… Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy ngoài những nguyên nhân chủ quan trên thì bất trắc và biến động khách quan trong nền kinh tế thị trường đều có thể là nguyên nhân gây ra tình trạng mất khả năng thanh toán cho các doanh nghiệp.
Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả kinh tế – xã hội nhất định. Ví dụ: Sự phá sản của một bộ phận lớn doanh nghiệp nào đó thường gây ra những xáo trộn, ảnh hưởng xấu đến việc phát triển sản xuất, ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập của người lao động. Song sự tác động của phá sản không phải bao giờ cũng chỉ có ý nghĩa tiêu cực. Xét về mặt kinh tế, bản thân nó là một giải pháp hữu hiệu trong việc “cơ cấu lại” nền kinh tế, góp phần duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng nghiệt ngã.
Tóm lại, phá sản luôn là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, nó hiện hữu như là một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên của nền kinh tế thị trường, bất kể đó là nền kinh tế thị trường phát triển ở các nước trên thế giới hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Luật phá sản 2014 không áp dụng với trường hợp nào?
Báo cáo kết quả triển khai thi hành LPS năm 2014 (tổng hợp hơn 23 báo cáo của các TAND cấp tỉnh) cho thấy: Năm 2017, số vụ việc yêu cầu phá sản được các tòa án thụ lý, giải quyết tăng mạnh với 439 vụ việc, trong đó có 45 quyết định tuyên bố phá sản. Con số này phản ánh thực tế LPS 2014 đã đi vào cuộc sống, từng bước khắc phục những vướng mắc, bất cập của LPS năm 2004. Tuy nhiên, trên thực tế, năm 2017, có 38.869 DN tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể; số DN hoàn tất thủ tục giải thể là 12.113. Năm 2018, có 27.126 DN đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn và 63.525 DN tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể; số DN hoàn tất thủ tục giải thể là 16.314. Điều này cho thấy, so với số DN, HTX chấm dứt hoạt động thì số vụ giải quyết thông qua thủ tục phá sản tại tòa án vẫn còn rất khiêm tốn. Thực trạng này một phần xuất phát từ việc các quy định của LPS 2014 chưa rõ ràng, chưa đầy đủ, mặt khác cũng do thiếu cơ chế đồng bộ, khả thi để các quy định của luật có thể triển khai trong thực tiễn.
Một là, những quy định về đối tượng áp dụng luật, tiêu chí xác định DN, HTX mất khả năng thanh toán; hai là thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, thủ tục nộp lệ phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản, cũng như thời hạn thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng cho các chủ nợ ở nước ngoài; ba là thông báo quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản; bốn là những xử lý khoản nợ có tài sản bảo đảm; năm là các biện pháp bảo toàn tài sản; sáu là điều kiện hợp lệ của hội nghị chủ nợ và biểu quyết thông qua hội nghị chủ nợ; bảy là tuyên bố DN, HTX phá sản và cuối cùng là thủ tục thi hành quyết định tuyên bố DN, HTX phá sản. Theo đó, có 4 nguyên nhân chủ quan, khách quan, như: Nhận thức pháp luật phá sản còn chưa đồng đều; nhiều quy định của LPS năm 2014 phản ánh những tư tưởng mới (khái niệm DN, HTX mất khả năng thanh toán), chế định mới (quản tài viên); một số quy định của LPS chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau; việc giải quyết vụ việc phá sản là loại việc khó, được đánh giá là “siêu vụ án” trong khi thực tiễn một số tòa án chưa có nhiều vụ việc phải giải quyết dẫn đến lúng túng.
Về thủ tục nộp đơn, hiện nay mới chỉ có chế tài xử phạt hành chính mà chưa có chế tài hình sự hay dân sự nào được áp dụng đối với các chủ thể có nghĩa vụ nhưng không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Bởi vậy, các chủ thể có nghĩa vụ nộp đơn hầu như không thực hiện nghĩa vụ, còn các chủ thể có quyền nộp đơn có thể chưa hiểu biết nhiều về việc mình được bảo vệ thông qua thủ tục phá sản hoặc do tâm lý ngại kiện tụng, không tin tưởng vào phương pháp đòi nợ này nên ít thực hiện quyền nộp đơn. Về thụ lý đơn, khi thực hiện việc thu tạm ứng chi phí phá sản do không có cơ sở để tính khoản tiền tạm ứng chi phí quản tài viên, DN quản lý, thanh lý tài sản và tài khoản nộp tiền tạm ứng, điều này khiến cho trình tự giải quyết vụ án phá sản gặp rất nhiều khó khăn, gây ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đồng thời, việc quy định thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, thẩm phán phải ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản là khá ngắn. Bởi đối với những DN, HTX có quy mô lớn hoạt động trên nhiều lĩnh vực thì để xem xét toàn bộ hồ sơ, tài liệu, đặc biệt là báo cáo tài chính để kết luận DN, HTX có mất khả năng thanh toán hay không thì cần có thời gian dài hơn để xem xét toàn diện tình hình DN, HTX. Thêm nữa, theo LPS năm 2014, hội nghị chủ nợ có vai trò quan trọng trong việc quyết định cho DN, HTX được áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế việc tổ chức hội nghị chủ nợ thường không đơn giản do các chủ nợ có tâm lý muốn xé lẻ để đòi nợ riêng mà không muốn tập hợp lại vì mục đích chung để giúp DN, HTX được phục hồi hay các chủ nợ được thanh toán theo trình tự luật định… Tóm lại, LPS năm 2014 mặc dù đã có nhiều thay đổi so với LPS năm 2004 nhưng vẫn ít được áp dụng trong thực tiễn.
Thông tin liên hệ:
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về; “Luật phá sản 2014 không áp dụng với”. Nếu quý khách có nhu cầu soạn thảo hồ sơ ngừng kinh doanh; Hợp pháp hóa lãnh sự Hà Nội; trích lục bổ sung hộ tịch; giải thể công ty cổ phần ;tìm hiểu về thủ tục thành lập công ty ở việt nam; đơn xác nhận tình trạng hôn nhân; đăng ký bảo hộ thương hiệu độc quyền hoặc muốn sử dụng dịch vụ tạm ngừng kinh doanh; dịch vụ hợp pháp hóa lãnh sự hà nội của chúng tôi; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có chắc chắn bị phá sản không?
- Doanh nghiệp và đã có quyết định mở thủ tục phá sản thì:
- Khi phá sản doanh nghiệp nào phải trả hết nợ?
Câu hỏi thường gặp
Theo quy định tại khoản 1 Điều 54, điểm h khoản 1 Điều 108 Luật Phá sản thì chi phí phá sản phải được nêu trong phần phương án phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản của Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Tuy nhiên, Thẩm phán không phải nêu cụ thể số tiền chi phí phá sản. Bởi lẽ, chi phí phá sản là khoản tiền phải chi trả cho việc giải quyết phá sản, bao gồm chi phí Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, chi phí kiểm toán, chi phí đăng báo và các chi phí khác theo quy định của pháp luật. Sau khi Tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản thì cơ quan thi hành án tiến hành việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Ở giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn tiếp tục phát sinh chi phí phá sản. Do đó, Tòa án không thể xác định được chính xác số tiền chi phí phá sản ở thời điểm ra quyết định tuyên bố phá sản.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 131 Luật Phá sản năm 2014 thì “đối với yêu cầu mở thủ tục phá sản đã được Tòa án nhân dân thụ lý trước ngày Luật Phá sản năm 2014 có hiệu lực mà chưa ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì áp dụng quy định của Luật này để tiếp tục giải quyết”.
Vậy trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã đang thực hiện thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 thì Tòa án xem xét, quyết định việc ra quyết định tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó theo Luật Phá sản năm 2014.
Theo quy định tại Điều 115 Luật Phá sản thì trong quá trình thi hành quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản mà phát sinh tranh chấp thì người tham gia thủ tục phá sản có quyền đề nghị Tòa án nhân dân đã giải quyết vụ việc phá sản xem xét. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị của người tham gia thủ tục phá sản, Tòa án đã giải quyết vụ việc phá sản phải ra văn bản trả lời không chấp nhận đề nghị của người tham gia thủ tục phá sản hoặc chuyển đơn đến người có thẩm quyền để xem xét kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật. Trường hợp không đồng ý với văn bản trả lời không chấp nhận đề nghị thì người tham gia thủ tục phá sản có quyền đề nghị người có thẩm quyền xem xét kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật. Tòa án không phải thụ lý thành một vụ án khác.