Ngày 6.1.2021, Nguyễn Minh Tiến dùng tài khoản Facebook “Huỳnh Đức Tài” để giả mạo ông Huỳnh Đức Tài (người bán cây hoa lan qua mạng Facebook) nhắn tin nói chuyện với ông Trần Hữu Vương nhằm lừa mua bán lan đột biến. Tiến đưa ra các thông tin gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của ông Vương. Khi chiếm được lòng tin của ông Vương, Tiến nhiều lần yêu cầu và ông Vương đã chuyển tổng cộng 251 triệu đồng vào các tài khoản ngân hàng do Tiến cung cấp. Số tiền chiếm đoạt, Tiến đầu tư mua bán hoa lan; mua vật phẩm game; mua xe môtô và tiêu xài cá nhân. Vậy hành vi lừa bán lan đột biến bị xử lý như thế nào theo quy định? Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu nhé!
Căn cứ pháp lý
Lừa bán lan đột biến phạm tội gì?
Dưới góc nhìn pháp lý, hành vi lừa bán lan đột biến được coi là một hành vi dùng thủ đoạn gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác.
Cụ thể, đối tượng có thể dùng thủ đoạn gian dối như: đưa ra thông tin giả. Từ đó, làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội.
Với trường hợp lừa đảo qua mạng, thủ đoạn gian dối thường là những câu chuyện bịa đặt được đăng tải trên mạng; thậm chí là cố tình lừa dối tình cảm người khác hoặc giả mạo người có chức vụ, quyền hạn…nhằm mục đích khiến người bị lừa tin tưởng và giao tài sản cho người lừa đảo.
Vì vậy, hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản nói chung; và hành vi lừa đảo qua mạng nói riêng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Mặt khách thể
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước; cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản, bao gồm vật, tiền. Việc xâm phạm quyền sở hữu cũng thể hiện ở hành vi chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác; sau khi lừa lấy được tài sản.
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như các tội có tính chất chiếm đoạt khác; nhưng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân; mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu; đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; tội cướp giật tài sản; đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là tình tiết định khung hình phạt.
Mặt chủ quan
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp; người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có tính chất chiếm đoạt; do lỗi cố ý của chủ thể, mục đích là mong muốn chiếm đoạt được tài sản thuộc sở hữu của người bị hại.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối; và hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi đã có tài sản một cách hợp pháp; ngay thẳng rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản thì không phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản; tùy trường hợp cụ thể; người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác như tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Mặt chủ thể
Chủ thể của tội phạm có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại điều 12 BLHS về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; chủ thể của tội phạm không phải là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Tức là nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; mà chỉ có người trên 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm hữu trái phép tài sản của người khác để tạo cho mình khả năng định đoạt tài sản đó một cách gian dối. Đó là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho người có tài sản tin là sự thật; nên đã tự nguyện giao tài sản cho người có hành vi gian dối để họ chiếm đoạt. Hai dấu hiệu đặc trưng của tội phạm này là hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt.
Về hành vi: Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản:
- Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả nhưng làm cho người khác tin đó là thật; và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói; bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động; và bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản.
- Chiếm đoạt tài sản; được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối
Lừa bán lan đột biến bị xử lý như thế nào theo quy định?
Theo Điều 174, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017
Khung 1:
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Khung 2:
Phạm tội lừa đảo thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
Khung 3:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Khung 4:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây; thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Hình phạt bổ sung:
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Giải quyết vấn đề
Hành vi dùng thủ đoạn lan đột biến để chiếm đoạt tài sản của người khác là một ví dụ điển hình của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi này có thể dẫn đến hậu quả phạt từ đến mức chung thân.
Mời bạn xem thêm bài viết
- Hành vi lừa đảo góp vốn kinh doanh ngoại tệ bị xử lý như thế nào?
- Giả nhân viên y tế tẩm thuốc mê vào khẩu trang lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Có thể chuộc lại tài sản đã bán cho người khác không?
Thông tin liên hệ Luật sư X
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư X về nội dung Lừa bán lan đột biến bị xử lý như thế nào theo quy định? Hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho bạn đọc!
Luật sư X là đơn vị Luật uy tín; chuyên nghiệp, được nhiều cá nhân và tổ chức đặt trọn niềm tin. Được hỗ trợ và đồng hành để giải quyết những khó khăn về mặt pháp lý của quý khách là mong muốn của Luật sư X. Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ của luật sư X hãy liên hệ: 0833 102 102
Câu hỏi thường gặp
Theo quy định tại Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tái phạm nguy hiểm chia làm 2 trường hợp:
Trường hợp 1; đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.
Trường hợp 2; đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Thủ đoạn gian dối của người phạm tội phải có trước hành vi chiếm đoạt. Đây là nguyên nhân trực tiếp khiến người bị hại tin là thật mà giao tài sản cho người phạm tội. Đây cũng là đặc điểm để phân biệt với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản..
– Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một; hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật; không trái đạo đức xã hội.
– Trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho; nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản; thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.