Thẩm định nội dung lồng ghép bình đẳng giới và thủ tục hành chính; trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có vai trò rất quan trọng. Việc này, thứ nhất góp phần kiểm soát chất lượng; đảm bảo những thủ tục hành chính được ban hành thực sự; cần thiết, hợp lý, hợp pháp, hiệu quả và tiết kiệm;
Thứ hai là nâng cao vị thế, mở rộng khả năng, cơ hội để phụ nữ tiếp cận; đến mọi nguồn lực trong đời sống, đạt sự hài hòa về lợi ích giữa hai giới. Vậy những quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh khâu thẩm định; về hai vấn đề trên có ưu, nhược điểm. Để hiểu rõ hơn về vấn đề Lồng ghép bình đẳng giới và thủ tục hành chính trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Hãy cùng tham khảo quan bài viết dưới đây của chúng tôi nhé!
Căn cứ pháp lý
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là gì?
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện; và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng. của gia đình và thụ hưởng như nhau; về thành quả của sự phát triển đó. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới bằng cách; xác định vấn đề giới, dự báo tác động giới của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để giải quyết; vấn đề giới trong các quan hệ xã hội được văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Thủ tục hành chính là “cách thức tổ chức thực hiện hoạt động quản lý; hành chính nhà nước theo đó cơ quan, cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ, cả nhân; tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật trong qua trình giải quyết; các công việc của quản lý hành chính nhà nước”. Theo khoản 1, khoản 3, khoản 7 Điều 5 Luật Bình đẳng giới 2006:
“1. Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội”
Những quy định pháp luật hiện hành về thẩm định nội dung lồng ghép bình đẳng giới trong dự thảo văn bản pháp luật.
Trong các văn bản Luật điểm ở khoản 2, điểm d khoản 3 Điều 92; Điều 93, điểm d khoản 2 Điều 98, điểm d khoản 2 Điều 102, khoản 5 Điều 103 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Bên cạnh đó là Điều 21, Điều 22 Luật Bình đẳng giới 2006.
Đối với các văn bản dưới luật. Nhà nước đã có quy định cụ thể trong nhiều hoạt động trong đó có thảm định nội dung này cụ thể trong Chương III Nghị định 48/2009/NĐ-CP Quy định về các biện pháp bao đảm bình đẳng giới. Đồng thổi. Thông tư số 17/2014/TT-BTP Quy định về lầng ghép văn để bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật tại Mục 4 đã điều chỉnh rất chi tiết về việc lồng ghép bình đẳng giới trong hoạt động thẩm định văn bản quy phạm
Bình luận quy định của pháp luật hiện hành về thẩm định nội dung lồng ghép bình đẳng giới trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Về những ưu điểm:
Trong trường hợp các cơ quan có thẩm quyền không được phân công; soạn thảo thì tổ chức, cá nhân đó có trách nhiệm cung cấp tài liệu có liên quan tới; vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới cho cơ quan chủ trì soạn thảo khi có yêu cầu.
Điều này giúp thống kê được các số liệu, tìm hiểu được nguyên nhân gây ra tình trạng; bất binh đẳng, tạo cơ sở để ban hành các văn bản quy phạm phù hợp với thực tiễn. Tiếp theo, với yêu cầu có mặt đại diện; cơ quan quản lý Nhà nước về bình đẳng giới, hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Ngoài ra, còn cần tham văn, lấy ý kiến của các chuyên gia về giới. Điều này đảm bảo cho các quy phạm có nội dung; khách quan, phủ hợp, phát huy tốt binh đẳng giới.
Về nhược điểm:
Bên cạnh các ưu điểm là những hạn chế trong nội dung; của các quy định pháp luật về thẩm định vấn đề lồng ghép bình đẳng giới.
Đầu tiên, số lượng dự thảo văn bản QPPL khi trình thông qua; hoặc ban hành có sự lồng ghép về vấn đề binh đẳng giới khá lớn, là kết quả từ các quy định pháp luật; yêu cầu phải có nội dung bình đẳng giới. Tuy nhiên, nhìn chung việc lồng ghép này còn mang tính hình thức, chất lượng không cao. Luật Bình đẳng giới ban hành đến nay đã 15 năm, vẫn còn tình trạng chưa ý thức; hoặc ý thức chưa đầy đủ, không nằm chắc về bình đẳng giới. Khi đánh giá, nhận xét về văn bản dưới góc độ giới vẫn còn theo cảm tính.
Tiếp theo, do chưa có các yêu cầu cụ thể, các tiêu chí đánh giá; vẫn mang tính chung chung đã tạo ra những quy định định tính, khó xác định cụ thể; con số chính xác khi cần thiết. Mặt khác, ngay từ các quy định về thẩm định nội dung bình đẳng giới; đã nhìn nhận phụ nữ là người được thụ hưởng, người được bảo hộ, bảo vệ nên các văn bản quy phạm; pháp luật được xây dựng ra không mang tính đa chiều.
Các phương án chính sách, dự thảo quy định pháp luật; qua hoạt động thẩm định chưa thực sự giảm khoảng cách giới.
Cuối cùng, trong các quy định pháp luật về thẩm định nội dung lồng ghép bình đẳng giới không có một nội dung về phân loại phụ nữ theo nhóm cụ thể để có chính sách bù đắp phù hợp; từ đó rất nhiều quy định pháp luật, chính sách ra đời gây bất lợi cho phụ nữa hoặc chưa thực sự tạo được sự bình đẳng giữa nam và nữ trong những nhóm phụ nữ khác nhau cũng cần có sự bình đẳng.
Luật ban hành văn bản pháp luật hiện hành; và trên thực tế thực hiện Luật này; còn một số hạn chế liên quan tới lồng ghép giới, còn nhiều điểm chưa thống nhất; với Luật Bình đẳng giới; việc thực hiện lồng ghép giới của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; còn lúng túng, hình thức, chưa rõ trách nhiệm; trong việc tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Cần luật hóa một số quy định đã ổn định, phù hợp thực tiễn; của nghị định, thông tư về lồng ghép giới; trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ như bổ sung, quy định rõ trong;
Luật về vai trò phản biện xã hội của Hội LHPN về vấn đề bình đẳng giới; sửa đổi quy định về lồng ghép giới; khi dự án có vấn đề giới theo hướng quy định; rõ các dự án văn bản pháp luật đều phải có báo cáo lồng ghép giới; bổ sung quy định về nguyên tắc bảo đảm bình đẳng giới trong xây dựng văn bản pháp luật; xác định rõ trách nhiệm đối với các chủ thể; không thực hiện nghiêm túc các quy định của luật về trình tự, thủ tục lồng ghép giới;
Quy định thẩm quyền của UB Các vấn đề xã hội Quốc hội tham gia thẩm tra; để đảm bảo bình đẳng giới trong dự thảo luật, pháp luật trước khi trình Quốc hội; mở rộng quy định về lồng ghép giới đối với các loại văn bản pháp luật ở cấp địa phương.
Thông tin liên hệ:
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về; “Lồng ghép bình đẳng giới và thủ tục hành chính trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. ”. Nếu quý khách có nhu cầu soạn thảo hồ sơ ngừng kinh doanh; Hợp pháp hóa lãnh sự giải thể công ty cổ phần ;tìm hiểu về thủ tục thành lập công ty ở việt nam; đơn xác nhận tình trạng hôn nhân; đăng ký bảo hộ thương hiệu độc quyền hoặc muốn sử dụng dịch vụ tạm ngừng kinh doanh; dịch vụ hợp pháp hóa lãnh sự hà nội của chúng tôi; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Làm sao để biết công ty có đóng bảo hiểm cho mình hay không?
- Pháp luật được nhà nước sử dụng như thế nào?
- Giấy chuyển viện có giá trị bao nhiêu ngày?
Câu hỏi thường gặp
Bình đẳng giới luôn là mục tiêu quan trọng và nhất quán được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thực hiện trong những năm qua. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng VBQPPL được xem là biện pháp chiến lược để thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, phù hợp với đặc thù của mỗi giới; tạo cơ hội phát triển như nhau cho nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình; bảo đảm bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ.
Xác định vấn đề giới và các biện pháp giải quyết trong lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh;
Dự báo tác động của các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành với nam và nữ;
Xác định trách nhiệm và nguồn lực để giải quyết các vấn đề giới trong phạm vi văn bản quy phạm pháp luật.
Xác định vấn đề giới và các biện pháp giải quyết trong lĩnh vực mà văn bản QPPL điều chỉnh: Từ việc đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành và phân tích các số liệu thực tiễn có tách biệt theo giới để xác định các vấn đề đang có sự bất bình đẳng giới, có phân biệt đối xử về giới trong các lĩnh vực do văn bản QPPL điều chỉnh; xác định nguyên nhân gây nên vấn đề giới; đưa ra các phương án và các biện pháp giải quyết, trong đó có biện pháp ban hành văn bản QPPL.
Dự báo tác động của các quy định trong văn bản QPPL khi được ban hành đối với nữ và nam: Trong đó chú ý các tác động đến vị trí của nam, nữ trong đời sống xã hội và gia đình, đến cơ hội, điều kiện phát huy năng lực của nam, nữ cho sự phát triển của cộng đồng, gia đình và cá nhân; đến việc nam, nữ thụ hưởng các kết quả của sự phát triển. Việc đánh giá phải dựa trên việc thu thập, phân tích thông tin và các dữ liệu cần thiết, có đánh giá định tính và định lượng; đồng thời đánh giá nhận thức, thái độ của xã hội đối với việc lồng ghép BĐG.