Những hành vi như bịa đặt chuyện xấu cho người khác; hư cấu những chuyện không có thật; loan truyền điều biết rõ là vu oan cho người khác, bịa đặt chuyện người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan nhà nước… được xem là vu khống. Những hành vi này gây nên hậu quả hết sức nặng nề. Vậy hành vi vu khống người khác bị xử lý như thế nào?
Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu về vấn đề này trong bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý
Nội dung tư vấn
Vu khống là gì?
Hiện nay, pháp luật nước ta chưa quy định cụ thể về khái niệm vu khống là gì. Bởi lẽ hành vi vu khống được thể hiện qua các hành vi cụ thể để xem xét có đủ yếu tố để cấu thành tội vu khống hay chưa.
Vu khống là hành vi cố ý đưa tin hoặc cố ý loan truyền những thông tin không đúng sự thật với các nội dung xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của cá nhân nào đó. Mục đích của hành vi này nhằm làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của họ; từ đó trục lợi cho bản thân. Hành vi này được thể hiện qua nhiều phương thức khác nhau như: truyền miệng, đăng tin lên mạng xã hội; các thông tin đại chúng hoặc qua thư tố giác…
Hành vi nào bị coi là phạm tội vu khống?
Một hành vi sẽ bị coi là phạm tội vu khống khi có đủ cấu thành tội vu khống và có một trong các biểu hiện sau đây:
– Tạo ra những thông tin không đúng sự thực và loan truyền các thông tin đó mặc dù biết đó là thông tin không đúng sự thực.
– Tuy không tự đưa ra các thông tin không đúng sự thực nhưng có hành vi loan truyền thông tin sai do người khác tạo ra mặc dù biết rõ đó là những thông tin sai sự thực.
Lưu ý đối với cả hai trường hợp trên, nội dung của thông tin sai sự thực phải thể hiện sự được mục đích hướng tới là xúc phạm danh dự, uy tín, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Loan truyền thông tin sai sự thực có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như truyền miệng, qua các phương tiện thông tin đại chúng, viết đơn, thư tố giác …
Cấu thành tội vu khống như thế nào?
Mặt khách quan
Mặt khách quan của Tội vu khống có các dấu hiệu sau:
– Về hành vi, người phạm tội vu khống có một trong ba dạng hành vi sau đây:
+ Bịa đặt: Hành vi này được thể hiện thông qua việc người phạm tội đưa ra những thông tin không đúng sự thật; tự nghĩ ra một điều gì đó mà không có với người khác. Hình thức đưa ra thông tin có thể ở các dạng khác nhau như truyền miệng, viết đơn; qua các phương tiện thông tin đại chúng,…
+ Loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật: Người phạm tội dù không bịa đặt nhưng lại loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt. Việc loan truyền thông tin cũng có thể thể hiện đa dạng qua nhiều hình thức như: kể lại cho người khác nghe, đăng bài; chia sẻ bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng,…
+ Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền. Người phạm tội dù biết rõ người mình tố giác không có hành vi phạm tội; nhưng vẫn tố cáo họ trước Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ( Công an, Viện Kiểm sát,…)
– Về hậu quả: Tội phạm không bắt buộc phải gây ra hậu quả trên thực tế.
Mặt khách thể
Vu khống là hành vi bịa đặt hoặc đưa tin một chuyện xấu xa; không có thật để làm mất danh dự, uy tín của người khác hoặc gây thiệt hại; đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Tội vu khống xâm phạm danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của con người.
Như vậy, khách thể của tội vu khống là quyền được Nhà nước bảo hộ về danh dự nhân phẩm của con người; và các quyền và lợi ích hợp pháp của con người bị xâm hại.
Mặt chủ quan
Chủ thể thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội hoàn toàn nhận thức rõ được hậu quả xâm hại danh dự nhân phẩm của nạn nhân; thậm chí xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của nạn nhân; nhưng người phạm tội hoàn toàn mong muốn hậu quả xảy ra.
Mục đích xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự; hoặc gây thiệt hại đến quyền; và lợi ích của người khác là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
Mặt chủ thể
Chủ thể của tội phạm này là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự; tức là đáp ứng đủ hai điều kiện:
– Có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi;
– Đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự với tội phạm này: từ đủ 16 tuổi trở lên.
Hành vi vu khống người khác bị xử lý như thế nào?
Điều 156 Bộ luật Hình sự quy định 04 khung hình phạt áp dụng đối với người phạm tội vu khống như sau:
– Khung hình phạt phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm đối với người nào thực hiện một trong các hành vi:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật; nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự; hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
– Khung hình phạt phạt tù từ 01 năm đến 03 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người đang thi hành công vụ;…
– Khung hình phạt phạt tù từ 03 năm đến 07 năm khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
a) Vì động cơ đê hèn;
b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Làm nạn nhân tự sát.
– Khung hình phạt bổ sung; người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Dùng nick ảo vu khống trên facebook, phạt đến 3 năm tù
- Bình luận vu khống công an trên mạng xã hội bị xử lý như thế nào
Liên hệ Luật sư
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Luật sư X về Hành vi vu khống người khác bị xử lý như thế nào?. Hi vọng bài viết trên sẽ giúp ích cho bạn đọc.
Nếu có bất kì thắc mắc nào về thủ tục pháp lý có liên quan. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi: : 0833 102 102
Câu hỏi thường gặp
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vu khống là hành vi vu khống do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi vu khống đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc vu khống; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc vu khống một cách dễ dàng.
Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội để trả thù; phạm tội để trốn tránh trách nhiệm của bản thân; phạm tội đối với người mà mình mang ơn hoặc những hành vi phạm tội khác thể hiện sự bội bạc, phản trắc.
Phạm tội vu khống có tổ chức là trường hợp có nhiều người tham gia, trong đó có người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy có người trực tiếp thực hiện tội phạm, có người xúi giục, hoặc giúp sức, nhưng tất cả đều chung một mục đích là làm thế nào để vu khống được người khác. Vu khống có tổ chức là trường hợp phạm tội nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội không có tổ chức, vì phạm tội có tổ chức do có sự phân công, cấu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội phạm nên chúng dễ dàng thực hiện việc vu khống và cũng dễ dàng che giấu hành vi phạm tội của mình.