Để đảm bảo trật tự, an ninh xã hội, ngày càng đảm bảo chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội, từ đó nhà nước đã ban hành các công cụ pháp luật. Các công cụ pháp luật này được tạo ra nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ nhu cầu quản lý và duy trì trật tự xã hội. Như chúng ta đã thấy, cờ bạc là một trong những tệ nạn nguy hiểm nhất hiện nay. Cờ bạc ngày nay tràn lan và ngày càng tinh vi hơn. Tội phạm thực hiện nhiều thủ đoạn khó lường nhằm trốn tránh cơ quan chức năng. Do đó, cần phải liên tục thay đổi luật pháp và có hành động nhanh chóng và kịp thời để ngăn chặn các hoạt động cờ bạc bất hợp pháp này. Mời bạn đọc tham khảo bài viết “Giải đáp về tội đánh bạc theo quy định pháp luật” của Luật sư X để tham khảo bài viết sau đây.
Giải đáp về tội đánh bạc theo quy định pháp luật
- Đánh bạc được hiểu là hai hay nhiều người cùng tham gia thực hiện hành vi cá cược dưới bất kỳ hình thức nào mà được thua bằng tiền hoặc hiện vật.
- Tội đánh bạc được quy định cụ thể tại điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 (sđbs 2017). Thì theo quy định tại Điều 321 thì người nào thực hiện hành vi đánh bạc trái phép dưới bất cứ hình thức nào mà được thua bằng tiền hoặc hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 tuy nhiên đã bị bị xử phạt hành chính hoặc bị kết án, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc.
Các quy định pháp luật về tội đánh bạc
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung về tội đánh bạc như sau:
“Điều 321. Tội đánh bạc
1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”
Khách thể của tội phạm
Tội đánh bạc là loại tội phạm xâm phạm tới trật tự công cộng
Hành vi phạm tội thể hiện ở tội đánh bạc với tính chất chung là sát phạt kinh tế hoặc tạo điều kiện cho nhiều người sát phạt nhau về kinh tế dưới bất kỳ hình thức nào.
Hành vi phạm tội đánh bạc làm cho con người bị tha hóa kéo theo những tác động tiêu cực tới chuẩn mực đạo đức, nếp sống văn minh, kỷ cương xã hội không được tôn trọng, là rào cản lớn đối với việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
Việc tụ tập đánh bạc của những người thực hiện hành vi phạm tội đánh bạc làm phát sinh lối sống lười lao động. Và hành vi đánh bạc là nguyên nhân của nhiều tội phạm và tệ nạn khác.
Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội đánh bạc là hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá nhất định. Tại Nghị quyết số 01/2010/NQ- HĐTP hướng dẫn như sau: “Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp. (Khoản 1 Điều 1)
Hành vi được thua bằng tiền hay hiện vật là hành vi có tính chất sát phạt lẫn nhau để kiếm tiền một cách bất hợp pháp. Những điều kiện mà chỉ khi thỏa mãn ít nhất một trong các điều kiện đó thì hành vi đánh bạc coi là hành vi phạm tội gồm:…
Việc quy định hành vi đánh bạc bất hợp pháp để phân biệt hành vi phạm tội đánh bạc với những trường hợp kinh doanh casino được Nhà nước cho phép để phục vị nhu cầu giải trí của người nước ngoài khi đến làm việc, du lịch tại Việt Nam
Phương thức, thủ đoạn của tội đánh bạc: tội đánh bạc được hiểu là “dưới bất kỳ hình thức nào”, trên thực tế, nó được biểu hiện dưới các dạng như đánh bài, đánh ba cây, xóc đĩa, tá lả, ghi sổ lô, số đề, đua ngựa, chắn,…
Quy mô của tội đánh bạc: trong mặt khách quan của tội đánh bạc không quy định về quy mô của tội đánh bạc, quy mô có thể lớn, nhỏ tùy từng trường hợp.
Địa điểm phạm tội đánh bạc: tội đánh bạc có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào, bất cứ chỗ nào từ nhà ở, cơ quan, bến xe, bến tàu, ….
Phương tiện phạm tội đánh bạc có thể là tiền hoặc hiện vật
Nghị quyết số 01/2010/NQ- HĐTP quy định về tiền, hiện vật đánh bạc như sau:
““Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:
a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;
b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;
c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.” (khoản 3 Điều 1)
- Tiền từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng; dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm
- Là hiện vật: định giá hiện vật dùng để đánh bạc làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự, trị giá của hiện vật từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng; dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm
Hậu quả của hành vi đánh bạc không phải là dấu hiệu bắt buộc được quy định trong cấu thành tội phạm của tội đánh bạc. Tội đánh bạc được xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm hình thức. Mặc dù hành vi đánh bạc có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nhưng nhà làm luật không quy định hậu quả là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt.
Chủ thể của tội phạm
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì Bộ luật Hình sự năm 2015 của nước ta quy định tại điều 12, đối chiếu quy định này với Điều 321 năm 2015 thì chủ thể của tội đánh bạc là người từ đủ 16 tuổi trở lên
Chủ thể của tội đánh bạc là người có năng lực trách nhiệm hình sự thể hiện ở năng ;lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội.
Chủ thể của tội đánh bạc hoàn toàn có thể là đàn ông, phụ nữ, người già, người trẻ, trung niên, quan chức, công nhân, lao động tự do, dân thường,…
Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội đánh bạc là lỗi cố ý trực tiếp. Người đánh bạc nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị luật hình sự cấm, nhận thức được tính chất xâm phạm tới trật tự công cộng nhưng vẫn mong muốn và thực hiện hành vi phạm tội.
Động cơ phạm tội tuy không được miêu tả trong cấu thành tội phạm, đây không là dấu hiệu bắt buộc của tội đánh bạc. Thông thường người phạm tội thường xuất phát từ động cơ là vui chơi, kiếm tiền bất hợp pháp, hoặc có thể là để kiếm sống.
Mục đích phạm tội cũng không là dấu hiệu bắt buộc, nhưng đó có thể là vì mục đích thu tiền, kiếm tiền bất hợp pháp.
Cấu thành tội phạm tăng nặng
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp được hiểu là trường hợp một số người đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính. (Nghị quyết số 01/2010/NQ- HĐTP)
Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội tức là với các thủ đoạn như lập tài khoản online, sau đó nạp tiền vào tài khoản online bằng cách mua thẻ cào của các nhà mạng, đế có một lượng tiền online nhất định, thực hiện hành vi đánh bạc qua các ứng dụng trên các trang web trực tuyến giữa những người thực hiện hành vi đánh bạc với nhau; hay người thực hiện hành vi đánh bạc với các hình thức khác thông qua mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông như gọi điện, chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của chủ lô, để để mua lô, để.… Hành vi đánh bạc này đã gây thiệt hại không nhỏ về tài sản cho bản thân người phạm tội, mà còn ảnh hưởng lớn hơn rất nhiều lần cho xã hội so với hành vi đánh bạc truyền thống
Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. (Khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015)
Hình phạt của tội đánh bạc
Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với hành vi đánh bạc được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm
Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm đối với trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên; sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; tái phạm nguy hiểm.
Hình phạt bổ sung: phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Khuyến nghị
Luật sư X là đơn vị pháp lý đáng tin cậy, những năm qua luôn nhận được sự tin tưởng tuyệt đối của quý khách hàng. Với vấn đề Giải đáp về tội đánh bạc chúng tôi cung cấp dịch vụ luật sư bào chữa cho người bị tố tổ chức đánh bạc Công ty Luật sư X luôn hỗ trợ mọi thắc mắc, loại bỏ các rủi ro pháp lý cho quý khách hàng.
Thông tin liên hệ
Trên đây là nội dung bài viết liên quan đến vấn đề “Giải đáp về tội đánh bạc theo quy định pháp luật”. Hy vọng bài viết có ích cho độc giả, Luật sư X với đội ngũ luật sư, luật gia và chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ cung cấp dịch vụ pháp lý như tư vấn pháp lý về đơn xác nhận độc thân mới nhất. Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe mọi thắc mắc của quý khách hàng. Thông tin chi tiết quý khách hàng vui lòng liên hệ qua số hotline: 0833.102.102.
Mời bạn xem thêm:
- Đánh bạc dưới 500 nghìn xử lý như thế nào?
- Tội đánh bạc qua mạng sẽ bị xử lý như thế nào?
- Phạm tội đánh bạc lần đầu dưới 50 triệu xử phạt tù mức nào?
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bởi Khoản 120 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 có quy định như sau:
Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Theo đó, đối với tội đánh bạc, hình phạt tù cao nhất là 07 năm. Hình phạt cụ thể còn phụ thuộc vào tình tiết của vụ án và quyết định sau cùng của tòa án có thẩm quyền.
Căn cứ Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP được sửa đổi bởi Điểm a Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP có quy định người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
Người bị xử phạt tù có nhân thân là ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
a) Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
b) Đối với người bị kết án mà khi định tội đã sử dụng tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án” và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;
c) Đối với người bị kết án mà vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Như vậy, theo quy định như trên, chồng bạn phạm tội đánh bạc có thể được hưởng án treo nếu có đầy đủ các điều kiện kể trên.