Ghi lô đề là một tệ nạn xã hội đã tồn tại từ lâu tại Việt Nam và bị pháp luật cấm. Mọi người có thể thường xuyên bắt gặp hình ảnh các cá nhân công khai ghi lô đề ngay trên vỉa hè hay trong các quán nước ven đường. Ngày nay, khi xã hội phát triển, tệ nạn này hoạt động một cách tinh vi hơn bằng cách thức ghi lô đề qua tin nhắn hòng tránh ánh mắt của lực lượng chức năng. Tùy vào từng quy mô tổ chức mua số đề, bán bảng đề mà người phạm tội có thể bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Vậy mức xử phạt theo đối với hành vi ghi lô đề qua tin nhắn được quy định như thế nào? Mời bạn đọc tham khảo bài viết dưới đây của Luật sư X.
Căn cứ pháp lý
- Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP
- Nghị định 144/2021/NĐ-CP
- Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-VPQH
- Công văn số 196/TANDTC-PC
Tại sao hành vi chơi lô đề lại bị pháp luật cấm?
Lô đề là trò chơi cá cược bằng tiền mà người chơi tham gia dự đoán kết quả xổ số kiến thiết hằng ngày.
Căn cứ Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định:
“1. Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.”
Mọi hành vi được thua bằng tiền hay hiện vật như chơi lô đề, chơi bài, đá gà, cá độ, trò chơi điện tử xèng… đều được coi là một hình thức đánh bạc và có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Mức xử phạt đối với hành vi ghi lô đề
Tùy vào tính chất, mức độ vi phạm, người tổ chức đánh bạc dưới hình thức ghi lô đề có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức đánh bạc.
Xử phạt vi phạm hành chính
Theo Khoản 5 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định về mức xử phạt hành vi tổ chức đánh bạc trái phép dưới hình thức ghi lô đề:
“5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh đề sau đây:
a) Làm chủ lô, đề;
b) Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề;
c) Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề;
d) Tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền.”
Đồng thời, người thực hiện hành vi vi phạm nêu trên có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Khoản 6, Khoản 7 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP như sau:
“6. Hình thức xử phạt bổ sung:
a) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại khoản 1; khoản 2; các điểm a và b khoản 3; các điểm b, c và d khoản 4 và khoản 5 Điều này;
b) Đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi quy định tại điểm đ khoản 3 Điều này;
c) Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.
7. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1; khoản 2; các điểm a và b khoản 3; các điểm b, c và d khoản 4 và khoản 5 Điều này.”
Trách nhiệm hình sự
Căn cứ Điều 322 Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-VPQH quy định khung hình phạt hình sự về tội tổ chức đánh bạc như sau:
“1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền Sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;
d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;
đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương, tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Có thể thấy, trong trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người phạm tội có thể bị áp dụng mức phạt tù lên đến 10 năm. Ngoài ra, còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đến 100.000.000 đồng hoặc bị tịch thu toàn bộ tài sản.
Ghi lô đề qua tin nhắn có bị coi là đánh bạc qua mạng không?
Căn cứ Công văn số 196/TANDTC-PC về áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 321 và Điểm c Khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự do Tòa án nhân dân tối cao ban hành có quy định như sau:
“Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự được hiểu là việc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để đánh bạc trực tuyến (như hình thành nên các chiếu bạc online hoặc sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để tổ chức đánh bạc, gá bạc).
Việc người phạm tội sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử khác như là phương tiện để liên lạc với nhau (ví dụ: nhắn tin qua điện thoại, qua email, zalo, viber…. để ghi số đề, lô tô, cá độ đua ngựa…) mà không hình thành nên các trò chơi được thua bằng tiền hoặc hiện vật trực tuyến thì không thuộc trường hợp “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự.”
Như vậy, theo quy định nêu trên, việc ghi lô đề qua tin nhắn sẽ không bị truy tố về việc sử dụng mạng Internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để tổ chức đánh bạc vì việc ghi lô đề bằng các này không tạo nên những chiếc bạc ăn thua tiền hoặc hiện vật trực tuyến.
Mời bạn xem thêm
- Ghi lô đề bị phạt như thế nào?
- Tố cáo ghi lô đề như thế nào?
- Hình phạt đối với tội ghi lô đề trái phép
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật sư X về “Ghi lô de qua tin nhắn”. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên; để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến xác nhận tình trạng độc thân, giải thể công ty, tạm dừng công ty, Giấy phép sàn thương mại điện tử hay dịch vụ đăng ký bảo hộ logo công ty, hợp thức hóa lãnh sự; đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, …. của Luật sư X, hãy liên hệ: 0833102102. Hoặc qua các kênh sau:
- Facebook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Theo quy định tại Điều 26. Hành vi đánh bạc trái phép
….5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh đề sau đây:
a) Làm chủ lô, đề;
b) Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề;
c) Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề;
d) Tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền.
Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi đánh bạc sau đây:
a) Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền, hiện vật;
b) Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;
c) Cá cược bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí, các hoạt động khác;
d) Bán bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề.
Theo quy định của pháp luật thì:
1. Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc một trong các trường hợp sau đây là “với quy mô lớn”:
a) Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc trở lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
b) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; khi đánh bạc có phân công người canh gác, người phục vụ, có sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện như ô tô, xe máy, xe đạp, điện thoại… để trợ giúp cho việc đánh bạc;
c) Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng một lần có giá trị từ 20.000.000 đồng trở lên.
2. Người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc trường hợp chưa đến mức được hướng dẫn tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này, nếu tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng thì tuy họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” nhưng họ phải chịu trách nhiệm hình sự về đồng phạm tội đánh bạc.
3. “Thu lợi bất chính lớn, rất lớn hoặc đặc biệt lớn” được xác định như sau:
a) Thu lợi bất chính từ 10.000.000 đồng đến dưới 30.000.000 đồng là thu lợi bất chính lớn.
b) Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 90.000.000 đồng là thu lợi bất chính rất lớn.
c) Thu lợi bất chính từ 90.000.000 đồng trở lên là thu lợi bất chính đặc biệt lớn.