Đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về thuế thu nhập cá nhân hiện nay; là một vấn đề rất quan trọng. Thuế TNCN đã được áp dụng từ lâu trên thế giới; và là một trong những sắc thuế có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động; nguồn thu ngân sách, thực hiện phân phối công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Tuy nhiên khoản thu nhập từ việc chuyển nhượng bất động sản thường không; được kê khai đầy đủ, nhiều trường hợp đã lợi dụng kẽ hở của pháp luật; để trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Pháp luật thuế thu nhập cá nhân trong hoạt động chuyển nhượng; bất động sản bộc lộ nhiều hạn chế cần được hoàn thiện. Để biết thêm về những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về thuế thu nhập cá nhân hiện nay. Hãy cùng tham khảo qua bài viết dưới đây của chúng tôi nhé!
Căn cứ pháp lý
Thuế thu nhập cá nhân là gì?
Để hiểu rõ khái niệm thuế TNCN, trước hết ta phải hiểu rõ hai khái niệm có tính chất tiền đề là “thu nhập cá nhân” và “thuế”. Về khái niệm “thu nhập cá nhân”. Có thể hiểu khái niệm thu nhập cá nhân làm căn cứ đánh thuế là: Thu nhập cá nhân là phần giá trị tăng thêm trên thực tế được biểu hiện dưới dạng tiền tệ hoặc hiện vật mang tính chất kinh tế khác nhau của các cá nhận hoặc từ hoạt động lao động, kinh doanh, từ quyền sở hữu, quyền sử dụng về tài sản, về tiền vốn, quà tặng, quà biếu… mà có hoặc các khoản thu nhập khác mà xã hội dành cho.
Thuế chỉ phát sinh khi có đủ những điều kiện nhất định. Có nghĩa là các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã được pháp luật quy định. Từ việc giải thích khái niệm về “thu nhập cá nhân” và “thuế” nói trên, định nghĩa “thuế TNCN” như sau: “Thuế TNCN là khoản tiền mà cá nhân phải nộp vào ngân sách nhà nước theo nguyên tắc bắt buộc, không hoàn trả khi phát sinh thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật”.
Những hạn chế bất cập trong việc thực hiện thuế thu nhập cá nhân hiện nay.
Phạm vi điều chỉnh của thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; là áp dụng cho những thu nhập phi kinh doanh của những; người có thu nhập cao, do vậy số chủ thể; thuộc diện chịu thuế không nhiều. Điều này không những ảnh hưởng đến hiệu quả thu ngân sách; mà còn làm cho thuế TNCN mất cơ hội phổ biến rộng rãi đến nhân dân, tạo tiền đề; cần thiết cho việc áp dụng Luật thuế thu nhập cá nhân sau này.
Qua nhiều lần sửa đổi, quy định về ngưỡng chịu thuế suất dương; người viết nhận thấy tốc độ gia tăng mức khởi điểm chịu thuế suất dương trong những lần sửa đổi; gần đây còn nhanh hơn mức độ gia tăng bình quân của thu nhập quốc dân. Chính vì vậy, số lượng cá nhân đóng thuế thu nhập; có xu hướng giảm và tỉ trọng thuế thu nhập trên tổng thu ngân sách; hầu như không tăng trong suốt những năm qua. Đây là một thực tế cần suy ngẫm bởi lẽ trong giai đoạn; hiện nay, có nhiều lí do để ngân sách nhà nước phải kì vọng vào thuế TNCN hơn trước đây.
Các đề xuất, kiến nghị về thuế thu nhập cá nhân hiện nay.
Từ những thực trạng đã nêu ở trên thì em xin đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về thuế thu nhập các nhân như sau:
Đầu tiên là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong việc xây dựng Luật thuế TNCN ở Việt Nam
- Thuế TNCN phải được quy định phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng IX và X đã xác định: “Áp dụng thuế TNCN thống nhất; và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển”; và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ… Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất; mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lí thu nhập”.
Như vậy, Luật thuế TNCN cần xác định phạm vi điều chỉnh rộng; hơn nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong đánh thuế; thu nhập theo hướng mọi cá nhân có thu nhập đều phải chịu thuế. Việc đánh thuế TNCN; sẽ không phân biệt cá nhân kinh doanh hay không kinh doanh, cá nhân là người nước ngoài; hay công dân Việt Nam.
- Luật thuế TNCN phải là công cụ hữu hiệu để Nhà nước tăng thu ngân sách, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua; Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra yêu cầu: “Cần sớm xác định; các bước đi thích hợp để tăng tỉ trọng các nguồn thu trong nuớc cho phù hợp với tiến trình hội nhập.
Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỉ lệ thu từ thuế trực thu”. Ở các quốc gia phát triển, tỉ trọng thuế TNCN trên tổng thu ngân sách; là khá cao, trong khi đó tại Việt Nam; số thu này là không đáng kể. So với các sắc thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì thuế TNCN đảm bảo công bằng tốt hơn; vì vậy, việc tăng nguồn thu từ thuế trực thu; là yêu cầu hợp lí và cần thiết.
Bên cạnh việc mở rộng đối tượng điều chỉnh, Luật thuế TNCN; cần bao quát được các nguồn thu của cá nhân, đồng thời hạn chế hiện tượng tránh thuế, lậu thuế. Bên cạnh đó, cần xác định một mức thuế suất hợp lí để vừa đảm bảo nguồn; thu cho ngân sách nhưng đồng thời cũng không gây áp lực lên chủ thể nộp thuế.
- Luật thuế TNCN phải là công cụ để đảm bảo công bằng xã hội.
Thực hiện công bằng xã hội là nhiệm vụ của bộ máy nhà nước nói chung; và pháp luật luôn được coi là công cụ hữu hiệu. Luật thuế TNCN cần phải; đảm bảo khả năng điều tiết thu nhập hợp lí đối với cá nhân có thu nhập. Về lí thuyết, pháp luật càng cá thể hoá nghĩa vụ nộp thuế; bao nhiêu thì càng có thể đảm bảo công bằng bấy nhiêu. Tuy nhiên, vấn đề này; cũng có tính hai mặt, bên cạnh việc đảm bảo công bằng tốt hơn, việc cá thể hoá nghĩa vụ nộp thuế; cũng có thể làm sai lệch bản chất công bằng.
Để đảm bảo việc áp dụng được chính xác và thuận tiện, việc quy định; các khoản chi phí được khấu trừ phải hết sức cụ thể, chính xác và minh bạch.
- Luật thuế TNCN cần quy định phù hợp với thực tiễn nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay, mức thu nhập bình quân trên đầu người của Việt Nam; còn thấp nên việc quy định mức thuế suất cần dựa trên nguyên tắc đảm bảo khuyến khích; lao động sản xuất, tạo thu nhập ổn định và làm giàu chính đáng.
Thông tin liên hệ:
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về; “Đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về thuế thu nhập cá nhân hiện nay ”. Nếu quý khách có nhu cầu soạn thảo hồ sơ ngừng kinh doanh; Hợp pháp hóa lãnh sự giải thể công ty cổ phần ;tìm hiểu về thủ tục thành lập công ty ở việt nam; đơn xác nhận tình trạng hôn nhân; đăng ký bảo hộ thương hiệu độc quyền hoặc muốn sử dụng dịch vụ tạm ngừng kinh doanh; dịch vụ hợp pháp hóa lãnh sự hà nội của chúng tôi; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Làm sao để biết công ty có đóng bảo hiểm cho mình hay không?
- Pháp luật được nhà nước sử dụng như thế nào?
- Giấy chuyển viện có giá trị bao nhiêu ngày?
Câu hỏi thường gặp
thuế TNCN có đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng.
Thứ hai, thuế TNCN luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia, thực hiện vai trò điều tiết thu nhập và đảm bảo công bằng xã hội.
Thứ ba, việc đánh thuế TNCN thường áp dụng theo nguyên tắc thuếsuất lũy tiến từng phần.
Thứ tư, thu nhập chịu điều tiết của thuế sẽ căn cứ vào cụ thể nguồn gốc phát sinh của các khoản thu nhập và căn cứ vào đặc điểm cư trú hay một số đặc điểm khác tuỳ theo luật của từng nước.
Thứ năm, do đối tượng nộp thuế đồng thời cũng chính là đối tượng chịu thuế nên thuế thu nhập cá nhân được xếp vào loại thuế trực thu.
Thuế chỉ phát sinh khi có đủ những điều kiện nhất định. Có nghĩa là các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã được pháp luật quy định. Từ việc giải thích khái niệm về “thu nhập cá nhân” và “thuế” nói trên, định nghĩa “thuế TNCN” như sau: “Thuế TNCN là khoản tiền mà cá nhân phải nộp vào ngân sách nhà nước theo nguyên tắc bắt buộc, không hoàn trả khi phát sinh thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật”.
Thuế TNCN là một sắc thuế trực thu có vai trò hết sức quan trọng. Nó ra đời tương đối sớm ở các nước phát triển và ngày nay thì phát triển rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Thuế TNCN ngày càng chứng tỏ vị trí không thể thiếu của mình với hai vai trò quan trọng nhất là tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và là một công cụ đắc lực góp phần đảm bảo công bằng xã hội từ đó có tác động tích cực trong việc quản lý kinh tế vĩ mô. Thuế TNCN giúp các quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thu hẹp dần khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, từ đó đảm bảo việc phân bổ thu nhập một cách công bằng hơn.