Trẻ em có quyền được bảo vệ, tiếp cận thông tin; tham gia hoạt động xã hội, vui chơi, giải trí; giữ bí mật cá nhân, đời sống riêng tư và các quyền khác khi tham gia trên không gian mạng. Vì vậy, nếu đăng ảnh trẻ em lên mạng xã hội; đặc biệt là trẻ em từ 7 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của trẻ và cha mẹ, hoặc người giám hộ. Vậy, pháp luật quy định cụ thể như thế nào? Hãy cùng Phòng tư vấn Luật dân sự của Luật sư X tìm hiểu thêm về vấn đề này nhé!
Căn cứ pháp lý
Nội dung tư vấn
Đăng ảnh trẻ em lên mạng xã hội có vi phạm không?
Bảo vệ trẻ em là việc thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được sống an toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em; trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Do đó, theo quy định của Luật Trẻ em năm 2016 quy định các hành vi bị nghiêm cấm; trong đó có hành vi:
Công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên; và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em.
Mặt khác, theo Nghị định 56/2017/NĐ-CP; quy định về các biện pháp bảo vệ thông tin bí mật đời sống riêng tư cho trẻ em trên môi trường mạng thì:
Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng; và cá nhân khi đưa thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em lên mạng; phải có sự đồng ý của cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên; có trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin của trẻ em.
Như vậy, nếu con dưới 7 tuổi thì việc bố mẹ đăng thông tin thuộc nhóm bí mật đời sống riêng tư của con lên mạng xã hội sẽ không phạm luật. Còn đưa hình ảnh trẻ em từ 7 tuổi trở lên mạng xã hội phải có sự đồng ý của trẻ và cha mẹ, hoặc người giám hộ. Vì đây là hành vi tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư; bí mật cá nhân của trẻ. Nếu tự ý đăng tải mà không được sự đồng ý thì hành vi này là vi phạm pháp luật.
Đăng ảnh trẻ em lên mạng xã hội bị xử lý như thế nào?
Cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em, trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên; và cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ trẻ em theo quy định của pháp luật. Họ có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ; cá nhân tham gia hoạt động trên môi trường mạng xóa bỏ các thông tin bí mật đời sống riêng tư của trẻ em. Từ đó, bảo đảm sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Nếu sử dụng hình ảnh mà vi phạm thì:
Người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại; và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, cha, mẹ, người giám hộ và cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ trẻ em theo quy định của pháp luật; có quyền khởi kiện yêu cầu chấm dứt sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại…
Ngoài ra, nếu đưa hình ảnh của trẻ em vào các sản phẩm văn hóa, thông tin, truyền thông; có nội dung khiêu dâm, bạo lực, kinh dị sẽ:
Thứ nhất, bị phạt tiền từ 40.000.000 triệu đến 50.000.000 đồng.
Thứ hai, buộc tiêu hủy sản phẩm.
Hy vọng bài viết sẽ có ích với bạn đọc!
Hãy liên hệ khi có nhu cầu sử dụng dịch vụ luật sư dân sự của Luật sư X: 0833 102 102
Câu hỏi thường gặp
Hành vi đăng tải hình ảnh người khác (đối với người từ 7 tuổi trở lên) mà không được sự đồng ý của họ thì vi phạm pháp luật. Có thể bị xử phạt hành chính từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng. Hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự như phạt tiền; phạt cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn.
Việc chia sẻ, đăng tải các nội dung xấu; độc hại lên mạng xã hội có thể bị phạt hành chính. Hành vi đăng tải video nội dung xấu, độc hại lên mạng xã hội có thể bị phạt hành chính từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng. Ngoài ra, người thực hiện vi phạm còn buộc phải gỡ bỏ thông tin.
Trường hợp nội dung video được đăng tải có tính chất làm nhục người khác trên mạng xã hội; và đã bị phạt hành chính hoặc gây hậu quả nghiêm trọng; người thực hiện thậm chí còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội làm nhục người khác.
Cụ thể: Phạt tù từ 03 tháng – 02 năm. Nếu gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc làm nạn nhân tự sát, người phạm tội có thể sẽ bị phạt tù từ 02 – 05 năm.