Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất của BLTTHS năm 2015 áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ, chứng cứ cho rằng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục thực hiện tội phạm và để bảo đảm cho hoạt động thi hành án.Cùng tìm hiểu các trường hợp tạm giam để điều tra qua bài viết dưới đây của Luật sư X.
Các trường hợp tạm giam để điều tra
Căn cứ quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, bị can, bị cáo có thể bị tạm giam trong các trường hợp sau đây:
- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn, có mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 07 năm đến 15 năm tù.
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn nên mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội này là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
- Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng ít nghiêm trọng, hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
- Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
- Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
- Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn với mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội này là từ trên 03 năm đến 07 năm tù.
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội này là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.
- Bị can, bị cáo phạmtội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
- Bị can, bị cáo là phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng sẽ bị tạm giam nếu thuộc một trong các trường hợp:
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
- Tiếp tục phạm tội;
- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
- Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Thời hạn tạm giam
Ở giai đoạn điều tra, truy tố và chuẩn bị xét xử sơ thẩm, việc quy định thời hạn tạm giam tùy thuộc vào từng loại tội phạm; ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, thời hạn tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và thời hạn tạm giam để bảo đảm thi hành án căn cứ vào cấp Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
Theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, nếu xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng;
- Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng;
- Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng;
- Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
Ngoài ra, trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng. Hết thời hạn đó mà chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 01 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia mà không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia, nếu xét thấy cần thiết và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 04 tháng. Trường hợp đặc biệt không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.
Mời bạn xem thêm:
- Có được phép mang tiền vào buồng tạm giam không năm 2022?
- Gặp người tạm giữ và tạm giam vào ngày nghỉ có được không?
Thông tin liên hệ với Luật sư X
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư X về chủ đề: Các trường hợp tạm giam để điều tra hiện nay
Hy vọng những kiến thức chúng tôi cung cấp có thể giúp bạn vận dụng vào công việc và cuộc sống. Để có thêm thông tin về những vấn đề liên quan đến đất đai khác như: thông báo giải thể công ty cổ phần, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, dịch vụ lập thừa kế nhà đất,… của Luật sư X, hãy liên hệ với chúng tôi.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
Câu hỏi thường gặp
Không phải mọi bị can, bị cáo đều bị tạm giam. Việc quyết định có áp dụng hay không áp dụng biện pháp này còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác như loại tội phạm, mức hình phạt, tính chất, mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã hội, mục đích áp dụng và tính nhân đạo đối với đối tượng bị áp dụng.
Biện pháp tạm giam có thể được áp dụng từ khi có quyết định khởi tố bị can cho đến khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
BLTTHS năm 2015 quy định hạn chế tạm giam đối với một số chủ thể bao gồm: phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng. Những đối tượng này khi thuộc các trường hợp có thể tạm giam thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam mà bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác ít bị hạn chế quyền tự do hơn như biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú,… trừ một số trường hợp được quy định tại khoản 4 Điều 119 BLTTHS năm 2015.