Xin chào Luật sư. Dạo gần đây, tôi vướng phải một vụ việc khá đau đầu. Gia đình tôi và nhà hàng xóm đang tranh chấp về ranh giới sử dụng đất. Chúng tôi cho rằng nhà hàng xóm trong khi xây nhà đã lấn sang một phần đất của nhà tôi; nhưng khi nói thì nhà hàng xóm khăng khăng đó là phần đất của họ. Luật sư cho tôi hỏi vấn đề này được luật quy định như thế nào? Luật Sư có thể cung cấp giúp tôi Bản án tranh chấp ranh giới đất liền kề số 49/2021/DS-PT được không? Rất mong được luật sư giải đáp thắc mắc. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi cho chúng tôi. Luật sư X xin phép trả lời câu hỏi của bạn như sau:
Tải bản án tranh chấp ranh giới đất liền kề số 253/2021/DS-PT
Nguyên đơn và bị đơn trong vụ án
Nguyên đơn:
1/ Ông Bùi Duy T, sinh năm 1983;
2/ Bà Trương Thị Tuyết M, sinh năm 1981;
Bị đơn:
1/ Ông Đàm Bỉnh Q, sinh năm 1959;
2/ Bà Kim Tú A, sinh năm 1962;
Nội dung vụ án trong bản án tranh chấp ranh giới đất liền kề số 253/2021/DS-PT
Trình bày của Nguyên đơn
Tại cấp sơ thẩm
Tại đơn khởi kiện ngày 07/10/2019 và các lời khai tại cấp sơ thẩm; người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn – ông Bùi Duy T và bà Trương Thị Tuyết M trình bày:
Ông Bùi Duy T và bà Trương Thị Tuyết M là chủ sở hữu hợp pháp nhà và đất số 43/28 đường K, Phường 7, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây viết tắt là nhà đất số 43/28 đường K). Ngày 07/6/2019, ông T và bà M được Ủy ban nhân dân Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy phép xây dựng số 257/GPXD để xây dựng mới căn nhà. Tại thời điểm tháo dỡ căn nhà trên thì phát hiện phần tầng trên của căn nhà liền kề tại số 43/30 đường K, Phường 7, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây viết tắt là nhà đất số 43/30 đường K) của ông Đàm Bỉnh Q và bà Kim Tú A có một khoảng xây dựng lấn chiếm không gian thuộc quyền sử dụng của ông T, bà M.
Ông T và bà M có trao đổi và yêu cầu ông Q; bà A tháo dỡ phần diện tích lấn chiếm trên nhưng ông Q, bà A không đồng ý. Vụ việc đã được Ủy ban nhân dân Phường 7, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành hòa giải nhưng không thành. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân Quận Y buộc ông Đàm Bỉnh Q và bà Kim Tú A là chủ sở hữu nhà số 43/30 đường K phải tháo dỡ phần không gian lấn chiếm: Chiều ngang 0.25 mét và chiều dài 10 mét tại địa chỉ số 43/28 (số cũ: 65/19) đường K.
Trường hợp hai bên thỏa thuận được; nguyên đơn đồng ý hỗ trợ bị đơn số tiền 50 triệu đồng để tháo dỡ phần không gian lấn chiếm của nguyên đơn.
Tại cấp phúc thẩm
Tại thời điểm khởi kiện nguyên đơn chỉ nhìn bằng mắt thường nên ước tính phần lấn chiếm chiều ngang khoảng 0,25m và chiều dài 10m, tuy nhiên sau khi có kết quả trả lời của Trung tâm Đo đạc Bản đồ – Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh thì nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu Tòa án buộc ông Đàm Bỉnh Q và bà Kim Tú A tháo dỡ phần không gian lấn chiếm (tầng 2 và cột) tương đương 0,5m2 của nhà số 43/30 đường K sang chủ quyền của nhà 43/28 (số cũ: 65/19) đường K.
Tại phiên tòa sơ thẩm; các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án; do đó nguyên đơn không hỗ trợ chi phí tháo dỡ; đề nghị Tòa án buộc bị đơn phải chịu chi chi phí trên.
Trình bày của Bị đơn
Tại cấp sơ thẩm
Nguyên đơn và bị đơn đều là những người chủ sở hữu sau này; thời điểm trước đây có thể có sự thỏa thuận nào đó giữa các chủ sở hữu cũ về vấn đề xây dựng giữa hai thửa đất. Khi nguyên đơn nhận chuyển nhượng lại thửa đất đã được biết hiện trạng của cả hai thửa đất và tình hình xây dựng; thì nay nguyên đơn nên chấp nhận hiện trạng như vậy. Đồng thời bị đơn cũng không thể cung cấp được các văn bản; chứng cứ có liên quan đến nội dung thỏa thuận của các chủ sở hữu cũ cho Tòa án.
Về việc nguyên đơn đề nghị hỗ trợ 50 triệu đồng để bị đơn tháo dỡ phần lấn chiếm; người đại diện hợp pháp của bị đơn sẽ phản hồi lại sau tại phiên tòa.
Tại cấp phúc thẩm
Giữ nguyên ý kiến tại các buổi hòa giải.
Đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Nhận định của Tòa án trong bản án tranh chấp ranh giới đất liền kề số 253/2021/DS-PT
Về tố tụng
Ngày 03/11/2020; Tòa án nhân dân Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm và tuyên bản án số 147/2020/DS-ST. Ngày 06/11/2020, bị đơn ông Đàm Bỉnh Q và bà Kim Tú A nộp đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị đơn được nộp trong thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; hợp lệ nên chấp nhận.
Các văn bản ủy quyền hợp lệ.
Về nội dung
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự đã tự nguyện thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án; cụ thể như sau:
Xác định căn nhà bị đơn số 43/30 đường K có một khoảng xây dựng diện tích 0,5m2 lấn chiếm không gian thuộc chủ quyền của nhà 43/28 đường K do nguyên đơn sở hữu theo Bản đồ hiện trạng vị trí áp ranh số hợp đồng 13753/TTĐĐBĐ-VPĐK ngày 25/3/2020 của Trung tâm Đo đạc Bản đồ – Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh; cụ thể, phần có số thứ tự (6) = 0.5m2 là phần chồng lấn không gian (tầng 2 và cột) của nhà số 43/30 đường K sang chủ quyền của nhà số 43/28 đường K.
Trường hợp nguyên đơn tiến hành xây dựng nhà theo đúng không gian tính từ ranh đất của nhà nguyên đơn thẳng lên, nếu vướng phần công trình xây dựng nào của nhà bị đơn thì bị đơn đồng ý tháo dỡ để trả lại quyền sử dụng không gian của nguyên đơn.
Về án phí Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng. Hoàn lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng.
Án phí dân sự phúc thẩm: Do các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án tại phiên tòa nên bị đơn kháng cáo phải chịu toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm; mỗi người là 300.000 đồng.
Quyết định của Tòa án trong bản án tranh chấp ranh giới đất liền kề số 253/2021/DS-PT
Chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn do nộp trong thời hạn luật định. Sửa bản án dân sự sơ thẩm. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau:
1. Xác định căn nhà số 43/30 đường K của ông Đàm Bỉnh Q và bà Kim Tú A có một khoảng xây dựng diện tích 0,5m2 lấn chiếm không gian thuộc chủ quyền của nhà 43/28 đường K do ông Bùi Duy T và bà Trương Thị Tuyết M sở hữu theo Bản đồ hiện trạng vị trí áp ranh số hợp đồng 13753/TTĐĐBĐ-VPĐD ngày 25/3/2020 của Trung tâm Đo đạc Bản đồ – Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể; phần có số thứ tự (6) = 0.5m2; là phần chồng lấn không gian (tầng 2 và cột) của nhà số 43/30 K sang chủ quyền của nhà số 43/28 đường K.
2. Trường hợp ông Bùi Duy T và bà Trương Thị Tuyết M tiến hành xây dựng nhà theo đúng không gian tính từ ranh đất của nhà ông T và bà M thẳng lên, nếu vướng phần công trình xây dựng nào của nhà ông Đàm Bỉnh Q và bà Kim Tú A thì ông Q và bà Tú A đồng ý tháo dỡ để trả lại quyền sử dụng không gian của ông T và bà M.
2.3. Về án phí Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Đàm Bỉnh Q và bà Kim Tú A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng).
Thông tin liên hệ
Trên đây là nội dung Luật sư X tư vấn về vấn đề “Bản án tranh chấp ranh giới đất liền kề số 253/2021/DS-PT”. Mong rằng mang lại thông tin hữu ích cho bạn đọc. Nếu quý khách hàng có thắc mắc về các vấn đề pháp lý liên quan như; đăng ký xác nhận tình trạng hôn nhân; tìm hiểu về thủ tục giải thể công ty bị đóng mã số thuế; hay tìm hiểu về mẫu hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, tra số mã số thuế cá nhân; trích lục đăng ký kết hôn… xin vui lòng liên hệ qua hotline: 0833102102 để nhận được sự tư vấn nhanh chóng.
Mẫu 5:
Có thể bạn quan tâm
- Tòa án được mở phiên tòa xét xử online
- Đơn kháng cáo vụ án ly hôn viết như thế nào?
- Thủ tục kê biên tài sản đang tranh chấp năm 2022
Câu hỏi thường gặp
Quy trình khởi kiện gồm các bước sau:
Hòa giải tại UBND cấp có thẩm quyền (trong trường hợp bắt buộc hòa giải).
Khởi kiện tại TAND có thẩm quyền
Tòa án thụ lý đơn khởi kiện và chuẩn bị phiên tòa sơ thẩm
Mở phiên tòa xét xử sơ thẩm
Thủ tục kháng cáo
Thủ tục chuẩn bị xét xử phúc thẩm
Mở phiên tòa phúc thẩm
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai giữa cá nhân với nhau là Tòa án nhân dân cấp Huyện nơi có đất theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 BLTTDS 2015.
Trong trường hợp có yêu cầu Tòa án xác định giá trị tài sản thì mức án phí được xác định như sau:
Từ 6.000.000 đồng trở xuống thì mức án phí phải nộp cho Tòa là 300.000 đồng
Từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng thì mức án phí là 5% giá trị tài sản có tranh chấp
Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng mức án phí là 20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng
Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng thì mức án phí là 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 800.000.000 đồng
Tài sản có giá trị từ 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng thì mức án phí phải nộp là 72.000.000.000.000 đồng thì mức án phí là 112.000.000 đồng + 0.1% của phần giá trị tài sản tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng.