Các bản án treo thể hiện tính nhân văn của pháp luật hình sự Việt Nam, khuyến khích người bị kết án tự giáo dục bản thân tại cộng đồng, được sự hỗ trợ tích cực của xã hội và gia đình ngày càng tăng. Có rất nhiều quy định kèm theo với việc hưởng án treo. Cùng Luật sư X tìm hiểu qua bài viết “Án treo có được xuất cảnh không theo quy định năm 2022?”
Án treo có được xuất cảnh không theo quy định năm 2022
Khi bị phạt tù đến 3 năm, căn cứ vào nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không phải thi hành án phạt tù thì Tòa cho hưởng án treo và ấn định thời hạn thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, Tòa án sẽ bà giao người được hưởng án treo đến cơ sở, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, huấn luyện. Gia đình của các tù nhân có trách nhiệm theo dõi và điều tra các tù nhân với sự hợp tác của các cơ quan chức năng, tổ chức và chính quyền địa phương.
Theo đó, án treo là biện pháp chấp hành hình phạt tù có điều kiện và người được hưởng án treo sẽ được ấn định thời gian thử thách.
Tại khoản 2 Điều 36 Luật Xuất cảnh, nhập cảnh 2019 quy định về các trường hợp bị tạm hoãn xuất cảnh như sau: “Người được hoãn chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo trong thời gian thử thách, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ trong thời gian chấp hành án theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.”
Do đó, những người đang trong thời gian thử thách thuộc trường hợp cấm xuất cảnh theo quy định trên. Sau khi có phán quyết của tòa án, nếu bạn hoàn thành thời gian thử việc mà không phạm tội khác, bạn sẽ được phép xuất cảnh.
Thay đổi nơi cư trú đối với người được hưởng án treo
Căn cứ quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 người được hưởng án treo cần phải đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ. Theo quy định tại Điều 68 Luật thi hành án dân sự 2019 trường hợp thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc cần phải đảm bảo thực hiện:
Người hưởng án treo vì lý do chính đáng phải thay đổi nơi ở, nơi làm việc phải có đơn gửi cơ quan quản lý và được ủy ban nhân dân thành phố, đơn vị quân đội quản lý xác nhận.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đơn của người bị quản chế, Cơ quan tuyên án Công an cấp quận, huyện hoặc Cơ quan tuyên án cấp quân khu phối hợp với các ban ngành liên quan xem xét đơn xin hưởng án treo. Điều tra, khảo sát và điều chỉnh việc di dời hoặc thuyên chuyển của người đó. Nếu không đồng ý phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Người được hưởng án treo được xem xét, giải quyết thay đổi nơi cư trú đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đang sinh sống cùng gia đình mà gia đình chuyển cư trú sang nơi khác;
- Chuyển đến nơi cư trú với vợ hoặc chồng sau khi kết hôn; chuyển nơi cư trú khác sau khi ly hôn;
- Chuyển đến nơi cư trú cùng cha, mẹ, ông, bà, con để thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trong trường hợp cha, mẹ, ông, bà, con bị bệnh hiểm nghèo mà không có người khác chăm sóc, nuôi dưỡng hoặc trường hợp già yếu không nơi nương tựa;
- Chuyển đến nơi cư trú khác để đảm bảo việc công tác, học tập;
- Không còn nơi cư trú vì bị giải tỏa, thiên tai, hỏa hoạn, địch họa;
- Buộc phải bán nhà để khắc phục hậu quả hoặc đảm bảo cuộc sống;
- Vì lý do dịch bệnh hoặc đảm bảo yêu cầu về quốc phòng an ninh;
- Các trường hợp khác do Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an quyết định.
Đồng thời nơi cư trú chuyển đến phải có địa chỉ cụ thể, rõ ràng, ổn định lâu dài.
Nghĩa vụ của người được hưởng án treo được quy định như thế nào?
Nghĩa vụ của người được hưởng án treo quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án hình sự 2019
- Có mặt theo giấy triệu tập và cam kết việc chấp hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này.
- Thực hiện nghiêm chỉnh cam kết trong việc tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc, học tập; chấp hành đầy đủ hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp vì lý do khách quan được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
- Chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cư trú, nơi làm việc.
- Chấp hành quy định tại Điều 92 của Luật này.
- Phải có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu.
- Hằng tháng phải báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình. Trường hợp vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật này thì khi hết thời hạn vắng mặt, người được hưởng án treo phải báo cáo về tình hình chấp hành nghĩa vụ của mình.
Người được hưởng án treo được rút ngắn thời gian thử thách khi nào?
Việc rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo quy định tại Điều 89 Luật Thi hành án hình sự 2019:
1.Người được hưởng án treo được đề nghị rút ngắn thời gian thử thách khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách;
b) Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật này; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động, bảo vệ an ninh, trật tự được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng.
2.Người được hưởng án treo chỉ được xét rút ngắn thời gian thử thách mỗi năm 01 lần, mỗi lần từ 01 tháng đến 01 năm. Trường hợp thời gian thử thách còn lại không quá 01 tháng thì có thể được rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại. Người được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thực tế đã chấp hành ba phần tư thời gian thử thách.
3.Trường hợp người được hưởng án treo lập công hoặc bị bệnh hiểm nghèo và có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này thì Tòa án có thể rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại.
4.Trường hợp người được hưởng án treo đã được rút ngắn thời gian thử thách nhưng sau đó vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 87 của Luật này và bị Tòa án quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo thì thời gian thử thách đã được rút ngắn không được tính để trừ vào thời gian chấp hành án phạt tù.
Mời bạn xem thêm:
- Người hưởng án treo có bị cấm đi khỏi nơi cư trú không?
- Khoản 2 tội đánh bạc có được hưởng án treo không?
- Được hưởng án treo khi giết người trong trạng thái bị kích động mạnh không
Thông tin liên hệ
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về “Án treo có được xuất cảnh không theo quy định năm 2022″. Nếu quý khách có nhu cầu soạn thảo hồ sơ ngừng kinh doanh; đăng ký bảo vệ thương hiệu, giấy phép bay flycam, Giấy phép sàn thương mại điện tử, đăng ký lại giấy khai sinh, thủ tục xin hợp pháp hóa lãnh sự, trích lục hộ tịch trực tuyến, đơn xin trích lục bản án ly hôn,giấy uỷ quyền xác nhận độc thân … của chúng tôi; Luật sư X là đơn vị dịch vụ luật uy tin, tư vấn các vấn đề về luật trong và ngoài nước thông qua web luatsux, lsx, web nước ngoài Lsxlawfirm,..Mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Tại Khoản 2 Điều 57 Luật viên chức 2010 quy định đối với viên chức bị truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
1. Viên chức bị Tòa án kết án phạt tù mà không được hưởng án treo hoặc bị Tòa án kết án về hành vi tham nhũng thì bị buộc thôi việc, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Viên chức quản lý bị Tòa án tuyên phạm tội thì đương nhiên thôi giữ chức vụ quản lý, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Căn cứ Khoản 1 Điều 30 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015 thì Những trường hợp không được ghi tên, xóa tên vào danh sách cử tri trong đó có người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án, người đang chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người mất năng lực hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Khoản 3 Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 thì Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.
Theo đó hình phạt bổ sung có thể ảnh hưởng tới việc bầu cử của công dân được xác định là tước một số quyền công dân. Như vậy, tại Điều 44 Bộ luật hình sự 2015 thì tước một số quyền công dân được cụ thể hóa như sau:
Quyền ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực Nhà nước;
Quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân.
Căn cứ Khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định:
Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Theo quy định này thì thời gian thử thách khi được hưởng án treo là từ 1 năm đến 5 năm.
Bên cạnh đó Điều 4 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP cũng có quy định:
Khi cho người phạm tội hưởng án treo, Tòa án phải ấn định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới 01 năm và không được quá 05 năm.
Theo nguyên tắc thì thời gian thử thách sẽ bằng 2 lần mức hình phạt tù nhưng không được dưới 01 năm và không được quá 05 năm.