Xin chào Luật sư, em trai em sinh năm 1974; đã có 1 tiền án về sử dụng trái phép chất ma túy 3 năm đã đc xóa án tích, 1 lần đi trại cai nghiện bắt buộc. Và gần đây nhất là ngày 18/8/2019 lại bị bắt vì tàng trữ sử dụng trái phép chất ma túy( hiện đang tạm giam ). Nay em muốn nhờ Luật tư vấn giúp em, án ma túy có được tại ngoại không? Rất mong nhận được sự phản hồi cuả Luật sư, em xin cảm ơn!
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tới chúng tôi. Luật sư X sẽ giải đáp thắc mắc của bạn như sau:
Căn cứ pháp lý
Tại ngoại là gì?
Khi Viện kiểm sát đã khởi tố một người thì Cơ quan điều tra sẽ tiến hành tạm giam để thực hiện công tác điều tra, tránh trường hợp người này bỏ trốn khỏi nơi cư trú hoặc tiếp tục hành vi phạm tội, hay xóa dấu vết tội phạm,…
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, căn cứ theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, và nhân thân của họ mà cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét để không phải tạm giam, đây được gọi là tại ngoại.
Theo đó, tại ngoại là hình thức áp dụng đối với đối tượng đã có quyết định điều tra, khởi tố nhưng không bị tạm giam. Về mặt pháp lý thì nó được biết đến là bảo lĩnh hay bảo lãnh tại ngoại.
Lưu ý: Trong quá trình điều tra mà được tại ngoại thì không có nghĩa bị can, bị cáo không có tội nữa, mà vẫn phải đến Cơ quan điều tra, Tòa án khi có lệnh triệu tập để giải quyết vụ án.
Trường hợp nào bị can, bị cáo được tại ngoại?
Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bị can, bị cáo có thể được tại ngoại khi thuộc một trong các trường hợp:
– Bị can, bị cáo không thuộc một trong các trường hợp bị tạm giam theo Điều 119:
+ Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
+ Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
- Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
- Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
- Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội…
+ Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
– Bị can, bị cáo là các đối tượng không bị tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác: Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng (căn cứ Điều 119).
– Được áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác thay thế tạm giam:
+ Bảo lĩnh: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh theo quy định tại Điều 121.
+ Đặt tiền để bảo đảm: Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm theo quy định tại Điều 122.
– Cấm đi khỏi nơi cư trú: Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án theo quy định tại Điều 123.
Án ma túy có được tại ngoại không?
Tùy vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can mà cơ quan tiến hành tố tụng có thể chấp nhận người phạm tội có được tại ngoại không, áp dụng các biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
- Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
- Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập….
- Hoặc có thể đặt tiền hay tài sản có gía trị để bảo đảm như sau:
- Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.
- Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam và số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
Trình tự, thủ tục xin tại ngoại
Căn cứ theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trình tự, thủ tục xin bảo lĩnh tại ngoại được thực hiện cụ thể như sau:
– Những người có thẩm quyền ra quyết định bảo lĩnh bao gồm:
+ Trong cơ quan điều tra: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Đối với trường hợp này thì quyết định bảo lĩnh phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn.
+ Trong Viện kiểm sát: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp.
+ Tại Tòa án: Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Ông Lê Tùng Vân được tại ngoại có đúng quy định pháp luật?
- Mua bán trái phép chất ma tuý khoản 1
- Tàng trữ trái phép ma túy bị phạt tù bao nhiêu năm?
Thông tin liên hệ Luật sư X
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về “Án ma túy có được tại ngoại không?″. Hy vọng bài viết có ích cho độc giả. Nếu quý khách có nhu cầu soạn thảo mẫu đơn xin tạm ngừng kinh doanh; thủ tục giải thể công ty cổ phần; cách tra số mã số thuế cá nhân, Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ; thành lập công ty ; hoặc muốn sử dụng dịch vụ tạm ngừng kinh doanh, thủ tục xin hợp pháp hóa lãnh sự của chúng tôi; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
- Facebook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Điều 4 Thông tư liên tịch số 06/2018 (quy định về trình tự, thủ tục, mức tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã đặt để bảo đảm) thì mức tiền đặt để bảo đảm do CQTHTT quyết định nhưng không dưới 30 triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 100 triệu đồng đối với tội phạm nghiêm trọng; 200 triệu đồng đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 300 triệu đồng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Cạnh đó, số tiền đặt có thể áp dụng mức thấp hơn nhưng không dưới 50% của số tiền đã nêu đối với bị can, bị cáo là người thuộc đối tượng chính sách…; người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Bị can, bị cáo được bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ theo luật định như: Có mặt theo giấy triệu tập; không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm…
“Nếu vi phạm bất kỳ một trong các nghĩa vụ vừa nêu thì bị can, bị cáo bị tạm giam và số tiền đã đặt để bảo đảm sẽ bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước” – ThS Trần Thanh Thảo nói.
Thời hạn bảo lĩnh, đặt tiền không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của BLTTHS. Thời hạn bảo lĩnh, đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
Theo điều 109 và 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp tạm giam bị can.
Tạm giam có thể áp dụng với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng trong một số trường hợp luật định.
Điều 121 cho phép căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
Với quy định nêu trên, về nguyên tắc, bất kỳ nghi phạm nào cũng có thể được cơ quan có thẩm quyền cho tại ngoại nếu như thỏa mãn các điều kiện luật định. Tuy nhiên, việc cho tại ngoại được thực hiện hết sức thận trọng, theo thủ tục tố tụng nghiêm ngặt, không dễ tùy tiện.
Thông thường, người thực hiện hành vi phạm tội có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, có chỗ ở rõ ràng, không có căn cứ cho thấy họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn… thì có thể được xem xét cho tại ngoại. Việc người bị tạm giam mắc bệnh hiểm nghèo chỉ là một trong các căn cứ để xem xét có được cho tại ngoại hay không.
Việc bắt tạm giam được thực hiện khi nghi phạm thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng (khung hình phạt từ 7 năm tù trở lên) hoặc đặc biệt nghiêm trọng (khung hình phạt từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình). Những người có nhân thân xấu, có tiền án, tiền sự, không có nơi cư trú rõ ràng thì có khả năng bị tạm giam cao hơn những người khác phạm tội tương tự.
Một số trường hợp được tại ngoại điều tra nhưng sau đó không mặt theo giấy triệu tập (trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan) hoặc có hành vi bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án… sẽ bị thay đổi biện pháp ngăn chặn sang tạm giam.