Khi cho vay, bên cho vay phải thực hiện theo đúng quy định pháp luật về lãi suất cho vay. Nếu cho vay với mức lãi suất vượt quá mức pháp luật cho phép sẽ bị xử phạt theo quy định. Vấn đề lãi suất cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản được quy định ở đâu? Hãy theo dõi bài viết dưới đây của Luật sư X để biết thêm thông tin nhé!
Căn cứ pháp lý
Lãi suất trong hợp đồng vay
BLDS năm 2015 quy định tại Điều 468 như sau:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.
Với quy định như trên, BLDS năm 2015 đã khắc phục những bất cập của BLDS năm 2005 về lãi suất trong hợp đồng vay như sau:
– BLDS năm 2015 không còn quy định lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố làm lãi suất tham chiếu trong xác định lãi suất trần mà áp dụng mức lãi suất trần xác định hoặc mức lãi suất cố định. Theo đó, thay vì khống chế lãi suất vay do các bên thỏa thuận không được vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản NHNN công bố như quy định của BLDS năm 2005 thì điều luật này đã đưa ra một con số khống chế rõ ràng (không quá 20%/năm).
Quy định về lãi suất nói trên cũng được áp dụng trong việc xác định lãi suất liên quan đến các trách nhiệm dân sự khác như: lãi suất phát sinh do chậm trả tiền trong trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (Điều 357 BLDS năm 2015); lãi suất áp dụng trong trường hợp bên mua hàng đã trả tiền nhưng chưa nhận vật do giao không đồng bộ (Điều 438 BLDS năm 2015).
Mức lãi suất giới hạn mà các chủ thể được thoả thuận khá rõ ràng và ở mức phù hợp với thực tế vay mượn giữa các chủ thể với nhau. Quy định về mức trần lãi suất vay cụ thể, rõ ràng tại BLDS giúp các bên tham gia quan hệ dân sự có thể biết được ngay mức trần lãi suất cho vay để điều chỉnh hành vi của mình, cũng như giúp các cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết tranh chấp có thể xác định dễ dàng mức lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận là có vi phạm pháp luật hay không, nếu vi phạm thì mức lãi suất cần áp dụng là bao nhiêu.
– BLDS năm 2015 đã quy định linh hoạt “căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội” (đoạn 1 khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015).
– Quy định về tính lãi trong trường hợp vay không có lãi theo BLDS năm 2015 rõ ràng và cụ thể hơn quy định tương ứng tại khoản 4 Điều 474 BLDS năm 2005. Theo đó, BLDS 2005 chỉ quy định bên vay không lãi mà khi đến hạn không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi đối với khoản nợ chậm trả theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ. Khắc phục bất cập này, Điều 466 BLDS năm 2015 ấn định một mức lãi suất cụ thể đối với trường hợp này là 10%/năm. Đây là mức lãi suất rõ ràng, tạo điều kiện cho các bên trong hợp đồng cũng như cho Tòa án trong việc thống nhất áp dụng luật.
– Quy định về việc tính lãi trong trường hợp vay có lãi mà đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ tại điểm a khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015 đãtháo gỡ băn khoăn về việc có tính lãi hay không tính đối với số tiền lãi bị trả quá hạn (khoản 5 Điều 474 BLDS năm 2005 không quy định cụ thể vấn đề này) bằng quy định tại điểm a khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015, theo đó Bộ luật đã ghi nhận việc tính lãi đối với số tiền lãi bị trả quá hạn, lãi suất áp dụng là 10%/năm.
– Quy định về lãi trên nợ gốc quá hạn tại điểm b khoản 5 Điều 466 là hoàn toàn mới so với khoản 5 Điều 474 BLDS năm 2005, theo đó, quy định mức lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hợp đồng vay là phù hợp và có tác động nâng cao trách nhiệm trả nợ đúng hạn của bên vay.
Lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ
Điều 357 BLDS năm 2015 quy định như sau:
“1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.”
Nếu BLDS năm 2005 quy định về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền là một nội dung của trách nhiệm dân sự cho chậm thực hiện nghĩa vụ nói chung thì BLDS năm 2015 đã tách nội dung này ra thành một điều luật riêng biệt nhằm nhấn mạnh trách nhiệm dân sự trong trường hợp đối tượng của nghĩa vụ là tiền. Theo đó, trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Như vậy, ngoài việc phải trả khoản tiền thuộc về nghĩa vụ chính như khoản tiền vay, tiền thanh toán do mua hàng hóa, trả tiền dịch vụ, thuê tài sản… thì bên chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền còn phải trả một khoản lãi tính trên giá trị của khoản tiền chậm trả đó.
Khoản lãi này bản chất là trách nhiệm bồi thường những tổn thất do việc chậm trả gây ra và được tính dựa trên mức lãi suất chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên.
Tuy nhiên, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất và hạn chế tình trạng lạm dụng, bóc lột lẫn nhau, đảm bảo ổn định nền kinh tế, kiểm soát sự lạm phát của thị trường… điều luật quy định lãi suất do các bên thỏa thuận không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468. Cụ thể, lãi suất do các bên thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.
Trường hợp các bên không có thỏa thuận thì lãi suất chậm trả được tính theo khoản 2 Điều 468, tức là “lãi suất được xác định bằng 50% lãi suất giới hạn” – tức là không quá 10%/năm của khoản tiền chậm trả, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
Cho vay ở mức nào là cho vay nặng lãi?
Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về lãi suất vay như sau:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực“.
Theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản là 9%/ năm.
Như vậy, lãi suất do các bên thỏa thuận sẽ không được vượt quá: 9% x 150% = 13,5%/ năm
Lãi suất cho vay tối đa trung bình một tháng sẽ là: 13,5 :12 = 1,125%/tháng.
Mời bạn xem thêm:
- Thứ tự xe ưu tiên qua ngã tư được quy định như thế nào?
- Thứ tự xe ưu tiên được quy định cụ thể như sau theo quy định 2022
- Xe nào ưu tiên nhất theo quy định mới 2022
Thông tin liên hệ với Luật sư X
Trên đây là toàn bộ những kiến thức mà Luật sư X chia sẻ với các bạn về “Vấn đề lãi suất cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản“. Hy vọng qua bài viết các bạn đã nắm được quy tắc thứ tự ưu tiên xe khi đi qua những điểm này để đảm bảo an toàn cho bản thân và mọi người xung quanh.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến giải thể công ty, giải thể công ty TNHH 1 thành viên, hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, quy định tạm ngừng kinh doanh, đăng ký bảo hộ logo công ty, dịch vụ đăng ký bảo hộ thương hiệu…của luật sư X, hãy liên hệ 0833102102.
Câu hỏi thường gặp
Khoản 1 Điều 468 BLDS quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”.
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một đơn vị thời gian (1 tháng hoặc 1 năm). Đây là loại giá cả đặc biệt, được hình thành trên cơ sở giá trị sử dụng chứ không phải trên cơ sở giá trị. Giá trị sử dụng của khoản vốn vay là khả năng mang lại lợi nhuận cho người đi vay khi sử dụng vốn vay trong hoạt động kinh doanh hoặc mức độ thoả mãn một hoặc một số nhu cầu nào đó của người đi vay. Khác với giá cả hàng hoá, lãi suất không được biểu diễn dưới dạng số tuyệt đối mà dưới dạng tỷ lệ phần trăm. Lãi suất (interest rate) cũng được xem là tỷ lệ sinh lời (rate of return) mà người chủ sở hữu thu được từ khoản vốn cho vay.
Căn cứ vào tính chất khoản vay, bao gồm những loại lãi suất cơ bản nhất được ngân hàng áp dụng cho khách hàng khi muốn vay tín dụng.
– Lãi suất cơ bản: được áp dụng chung, làm cơ sở để ấn định các mức lãi suất phát sinh cho các dịch vụ tín dụng khác của ngân hàng.
– Lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngân hàng: lãi suất sinh ra mà ngân hàng phải trả cho khách hàng sử dụng dịch vụ tiền gửi tiết kiệm vào ngân hàng.
– Lãi suất cho vay ngân hàng (lãi suất tín dụng): người vay tiền phải trả cho ngân hàng khi vay. Được chia thành nhiều mức lãi dựa theo hình thức vay là vay kinh doanh, trả góp, vay qua thẻ tín dụng, vay ngắn hạn…
– Lãi suất chiết khấu ngân hàng: áp dụng khi một cá nhân xin vay dưới dạng chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ cá giá trị. Được tính với tỷ lệ phần trăm theo mệnh giá thương phiếu, khấu trừ ngay từ ban đầu khi nhận tiền vay.
– Lãi suất tái chiết khấu: được ngân hàng Trung Ương áp dụng đối với các ngân hàng thương mại khi cho vay tái chiết khấu dưới dạng thương phiếu và giấy tờ có giá trị ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán.
– Lãi suất liên ngân hàng: áp dụng khi cho vay trên thị trường liên ngân hàng, giữa các ngân hàng với nhau qua quan hệ cung cầu vốn. Lãi suất liên ngân hàng được quy định bởi Ngân hàng Trung Ương, phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường và tỷ trọng sử dụng vốn.