Nam, nữ được xác lập quan hệ hôn nhân khi tuân thủ các quyền của pháp luật về điều kiện kết hôn và phải được đăng kí tại cơ quan có thẩm quyền. Vậy hôn nhân cụ thể là gì? Khi xác nhận quan hệ hôn nhân người chồng có quyền yêu cầu vợ theo tôn giáo của mình không?
Căn cứ pháp lý
Hôn nhân là gì?
Khoản 1 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình có quy định:
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn
Như vậy khi nam, nữ có mục đích chung sống lâu dài và cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc họ tiến hành đăng ký kết hôn khi đáp ứng các điều kiện theo quy định thì họ được xác lập quan hệ hôn nhân.
Hôn nhân là mối quan hệ gắn liền với nhân thân của hai bên nam nữ với tư cách là vợ chồng. Và quan hệ vợ chồng sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định cho các bên. Hôn nhân cũng là sự kết hợp của vợ chồng về tình cảm, xã hội, tôn giáo hợp pháp…
Bên cạnh, việc xác lập quan hệ hôn nhân với mục đích chung sống với nhau thì cũng có những trường hợp xác lập quan hệ hôn nhân không nhằm mục đích sống chung và xây dựng gia đình, mà vì mục đích khác để kết hôn giả tạo, thì quan hệ hôn nhân đó không được pháp luật thừa nhận, đồng thời các bên không phát sinh quan hệ hôn nhân trước pháp luật.
Khoản 5 Điều 3 Luật hôn nhân gia đình cũng quy định kết hôn chính là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau. Có thể thấy, kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Và khi kết hôn, cả hai bên nam, nữ đều phải tuân thủ các điều kiện kết hôn theo quy định và phải đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn có thẩm quyền.
- Đặc điểm của hôn nhân là gì?
Căn cứ Luật Hôn nhân và gia đình, hôn nhân có những đặc điểm sau:
– Hôn nhân là sự liên kết giữa hai người nam và nữ – là hôn nhân một vợ một chồng.
Luật Hôn nhân và gia đình cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc cấm người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ (điểm c khoản 2 Điều 5)
Vì là sự liên kết giữa một người nam và một người nữ, nên những người cùng giới tính không thể xác lập quan hệ hôn nhân với nhau.
– Hôn nhân dựa trên cơ sở tự nguyện của hai bên nam nữ: tự quyết định việc kết hôn, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối và cũng không bị cản trở. Sau kết hôn, việc duy trì hay chấm dứt quan hệ hôn nhân cũng dựa trên sự tự nguyện của mỗi bên vợ, chồng.
– Trong quan hệ hôn nhân nam, nữ hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật; có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt; không phân biệt vợ chồng là người Việt Nam hay người nước ngoài, người thuộc dân tộc hoặc tôn giáo nào… (khoản 2 Điều 2).
– Trong quan hệ hôn nhân, các bên phải tuân thủ các quy định của pháp luật: tuân thủ về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn, khi chấm dứt hôn nhân…
- Mục đích của hôn nhân là gì?
Có thể thấy, mục đích cao cả nhất, lớn nhất của hôn nhân là nhằm xây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc, bình đẳng, bền vững.
Mục đích của hôn nhân là để xây dựng gia đình, là các vấn đề về pháp lý và đời sống được các chủ thể cụ thể là vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân cùng hướng tới thực hiện.
Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long xưa kia đều quy định người chồng có quyền bỏ vợ nếu người vợ không có khả năng sinh con. Cũng tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có quy định cấm người bị bất lực hoàn toàn về sinh lí kết hôn.
Quan niệm về hôn nhân Việt Nam đã dần thay đổi, tiến bộ hơn. Hiện nay, việc sinh con không còn được xem là mục đích của hôn nhân, vì vậy cho dù hai vợ chồng dù sống với nhau nhưng không có con họ vẫn cùng nhau xây dựng gia đình.
Nếu việc kết hôn chỉ nhằm mục đích hưởng lợi về tài sản hoặc các lợi ích khác thì quan hệ hôn nhân đó không được thừa nhận. Mặt khác, nếu vợ chồng chung sống nhưng không thể xây dựng được gia đình hạnh phúc, bền vững thì mối quan hệ hôn nhân đó không đạt được mục đích của hôn nhân. Lúc này, một trong hai có thể yêu cầu ly hôn và được Tòa án giải quyết.
Mục đích của việc kết hôn thường thống nhất với mục đích hôn nhân, tuy nhiên cũng có trường hợp mục đích của việc kết hôn trái với mục đích hôn nhân, như kết hôn giả tạo…
Ép vợ theo tôn giáo của mình có vi phạm pháp luật?
Điều 22 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về việc tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của vợ, chồng như sau: “Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau”.
Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nguyên tắc bình đẳng như sau:
“Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau”.
Như vậy, mọi công dân đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo. Do đó, hành vi ép buộc người khác theo tôn giáo của mình là xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Theo quy định của pháp luật, người vợ có quyền tự do quyết định theo hoặc không theo tôn giáo của chồng. Việc chồng và gia đình chồng ép vợ phải theo tôn giáo của họ là trái với quy định của pháp luật. Trong trường hợp này người vợ có thể giải thích, thuyết phục với chồng và gia đình chồng để họ hiểu và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mình.
Ép vợ theo tôn giáo của mình thì bị xử phạt như thế nào?
Theo quy định tại Điều 164 Bộ luật dân sự 2015 về tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác như sau:
“Điều 164. Tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Dẫn đến biểu tình;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Theo đó, hành vi ép buộc người khác theo tôn giáo của mình nếu đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm. Trường hợp phạm tội có tổ chức; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội 02 lần trở lên; dẫn đến biểu tình; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Mời bạn xem thêm
- Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân như thế nào?
- Hôn nhân không chấm dứt nếu vợ và chồng ly thân
- Hôn nhân đồng giới ở việt nam có hợp pháp hay không?
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật Sư X về vấn đề “Ép vợ theo tôn giáo của mình có vi phạm pháp luật không”. Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến đăng ký bảo hộ nhãn hiệu và logo; Bảo hộ logo độc quyền; thành lập công ty; hợp pháp hóa lãnh sự; công văn tạm ngừng kinh doanh; xin giấy phép bay Flycam, giấy ủy quyền quyết toán thuế tncn…. hãy liên hệ: 0833.102.102..
Hoặc qua các kênh sau:
- FB: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để buộc người khác phải kết hôn trái với ý muốn của họ.
Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thần, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này
Như vậy, những hành này bị cấm là để đảm bảo nguyên tắc kết hôn giữa nam và nữ là hoàn toàn tự nguyện, họ tự do thể hiện ý chí, nguyện vọng của bản thân chứ không phải là do có sự tác động, ép buộc từ phía người khác. Quy định như vậy cũng góp phần xóa bỏ chế độ hôn nhân phụ thuộc vào cha mẹ của gia đinh phong kiến “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã tồn tại từ rất lâu và xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng hạnh phúc.
Chỉ coi là có hành vi ép buộc kết hôn khi hành vi đó thể hiện tính chất quyết liệt, làm cho người bị ép buộc không còn có thể có cách lựa chọn nào khác nên phải chấp nhận kết hôn với người mà họ không mong muốn kết hôn. Hành vi ép buộc kết hôn trái với nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Vì vậy, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định trong việc kết hôn, không bên nào được ép buộc bên nào.
Cản trở kết hôn là việc đe dọa, uy hiếp tinh thân, hành hạ, ngược đãi, yêu sách của cải hoặc hành vi khác để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn (Xem khoản 10 Điều 3 Luật hôn nhân gia đình 2014).
Như vậy, ngược lại với cưỡng ép kết hôn, cản trở kết hôn chỉ có thể là hành vi của người thứ ba mà không phải là hành vi của chủ thể kết hôn bởi vì bản chất của việc cản trở kết hôn là không cho phép người kết hôn được xác lập quan hệ hôn nhân mặc dù họ có đủ điều kiện kết hôn. Ví dụ, mặc dù hai người có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng bố mẹ của một trong hai bên đe dọa sẽ từ con nếu như hai người kết hôn với nhau hoặc cố tình thách cưới thật cao khi biết người kia không thể đáp ứng được yêu cầu về lễ vật mà buộc phải từ bỏ việc kết hôn…
Lừa dối kết hôn là việc một trong hai người kết hôn đã nói sai sự thật về người đó làm cho người kia lầm tưởng mà kết hôn. Có thể kể đến một số ví dụ về sự lừa dối kết hôn như: một người bị nhiễm HIV hoặc không có khả năng sinh con nhưng lại cố tình che dấu sự thật với bên kia hoặc một người đang có vợ, có chồng nhưng lại nói với bên kia mình là người chưa có vợ hoặc có chồng.
Ngoài các hành vi nói trên, việc kết hôn giả tạo cũng là hành vi bị cấm. Giả tạo kết hôn là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình (Xem khoản 11 Điểu 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Vì vậy, kết hôn giả tạo không phải là tự nguyện kết hôn. Bởi vì tự nguyện kết hôn phải nhằm mục đích xây dựng gia đình.