Thưa luật sư, tôi luôn thắc mắc về dấu hiệu phạm tội quy định trong tội cưỡng đoạt tài sản và cướp tài sản vì rất khó để xác định được ý chí chủ quan của người bị hại nếu như việc họ hoảng sợ và không thể làm gì khác thì có bị coi là tê liệt ý chí không? Và hơn nữa khi mà bị bắt thì người có hành vi phạm tội sẽ đều khai là chỉ có ý định cưỡng đoạt. Luật sư có thể nói rõ hơn về tội cưỡng đoạt tài sản được không? Mong luật sư giải đáp.
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chúng tôi; để giải đáp thắc mắc của bạn; cũng như vấn đề: Tội cưỡng đoạt tài sản Điều 170? Được quy định như thế nào? Đây chắc hẳn; là thắc mắc của; rất nhiều người để giải đáp thắc mắc đó cũng như trả lời cho câu hỏi ở trên; thì hãy cùng tham khảo qua; bài viết dưới đây của chúng tôi để làm rõ vấn đề nhé.
Căn cứ pháp lý
Tội cưỡng đoạt tài sản là gì?
Theo quy định tại Điều 170 – Bộ luật hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản như sau:
“1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Phân tích tội cưỡng đoạt tài sản điều 170 BLHS 2015
Các yếu tố cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản
Mặt khách quan: Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:
– Có hành vi đe dọa dùng vũ lực. Được hiểu là hành vi của người phạm tội đe dọạ sẽ thực hiện một hành động (hay đe dọạ sẽ sử dụng sức mạnh vật chất) để gây thiệt hại cho người bị hại. Mục đích của việc đe doạ này là làm cho người bị hại sợ và giao tài sản cho người phạm tội chiếm đoạt theo đòi hỏi mà người phạm tội đưa ra gắn liền với hành vi đe doạ nêu trên.
Khác với hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực trong tội cướp tài sản việc đe doạ này không mang tính mãnh liệt và tức thời, người bị hại (người chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản) hoàn toàn có điều kiện chuẩn bị đối phó và chưa đến mức làm tê liệt chí ý kháng cự của họ, mà chỉ hạn chế ở chỗ làm cho họ lo sợ ở mức độ nhất định, đồng thời họ vẫn có thời gian để lựa chọn giữa việc kháng cự hay chấp nhận giao tài sản (đây là điểm khác biệt cơ bản giữa tội cướp tài sản với tội này). Việc đe doạ được thực hiện thông qua hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp.
+ Đe doạ trực tiếp: Người phạm tội thực hiện việc đe doạ bằng lời nói, cử chỉ, hành động… công khai, trực tiếp với người bị hại.
+ Đe doạ gián tiếp: Người phạm tội thực hiện việc đe doạ thông qua các hình thức như: nhắn tin, điện thoại, thư… mà không gặp người bị hại.
– Các hành vi dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác. Được hiểu là dùng các thủ đoạn gây áp lực rất lớn về tinh thần của người bị hại để buộc họ phải giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt theo đòi hỏi mà người phạm tội đưa ra, kèm với việc dùng thủ đoạn đó.
Các thủ đoạn thường sử dụng là lợi dụng những lỗi lầm, khuyết điểm của người bị hại mà người phạm tội biết được để đe doạ sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của họ (ví dụ: Doạ tố cáo bí mật đời tư của một người, mà bí mật này sẽ ảnh hưởng đến danh dự của họ) hoặc doạ gây ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ xã hội khác như các mối quan hệ kinh doanh (Ví dụ: phát hiện nước giải khát đóng chai của một công ty có tạp chất, đã doạ công ty này phải đưa một khoản tiền lớn để người phạm tội không tiết lộ thông tin này…)
Lưu ý:
Thời điểm hoàn thành tội phạm này được tính từ lúc người phạm tội thực hiện xong hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn uy hiếp tinh thần người khác kèm theo đòi hỏi về giao tài sản để (với mục đích) chiếm đoạt. Nếu chỉ thuần tuý đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần mà không có hay không gắn liền vối yêu cầu về tài sản để chiếm đoạt thì không cấu thành tội phạm này.
+ Nếu người phạm tội mới có hành vi chuẩn bị công cụ, phương tiện, kế hoạch… để đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng chưa thực hiện được thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
+ Hành vi phạm tội đối với bị hại được thực hiện công khai. Công khai là công khai về hành vi phạm tội chứ không phải công khai bản thân người phạm tội. Vì thực tiễn cũng có trường hợp người phạm tội không lộ mặt bị hại mà chỉ thông qua điện thoại, .. đe doạ sẽ dùng vũ lực nhằm để chiếm đoạt tài sản.
Khách thể:
Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác (tương tự như khách thể của tội cướp tài sản).
Mặt chủ quan:
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
Về nguyên tắc mục đích chiếm đoạt tài sản phải có trước hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần khác. Nhưng cũng có trường hợp chuyển hoá tội phạm, có nghĩa là người phạm tội đã thực hiện một tội phạm khác, nhưng sau đó lại xuất hiện mục đích chiếm đoạt tài sản, thì cũng phạm vào tội này.
Ví dụ: A viết đơn vu khống B với mục đích trả thù, nhưng sau đó lại nảy sinh mục đích chiếm đoạt tài sản của B bằng cách tống tiền B, nếu B không đưa tiền sẽ đưa tin bịa đặt lên báo, lên mạng Internet. Đây là trường hợp chuyển hoá tội phạm khác thành tội dưỡng đoạt tài sản.
Chủ thể:
Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Khung hình phạt tội cưỡng đoạt tài sản điều 170
Mức hình phạt của tội này được chia thành bốn khung, cụ thể như sau:
Khung một (khoản 1)
Có mức phạt tù từ một năm đến năm năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản nêu ở mặt khách quan và chủ quan.
– Khung hai (khoản 2)
Có mức phạt tù từ ba năm đến mười năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Có tổ chức (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).
+ Có tính chất chuyên nghiệp (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).
+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.
+ Gây hậu quả nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).
– Khung ba (khoản 3)
Có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.
+ Gây hậu quả nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).
– Khung bốn (khoản 4)
Có mức phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.
+ Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (xem giải thích tương tự ở tội cướp tài sản).
– Hình phạt bổ sung (khoản 5)
Ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể, ngưòi phạm tội còn có thể bị:
+ Phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng.
+ Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Cưỡng đoạt tài sản khi nào được coi là gây hậu quả nghiêm trọng
Để xem xét trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng và trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về nguyên tắc chung phải đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ các hậu quả .
Để xem xét trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng và trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về nguyên tắc chung phải đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ các hậu quả (thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và các thiệt hại phi vật chất).
Nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản thì được xác định như sau:
- Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây là gây hậu quả rất nghiêm trọng:
a) Làm chết hai người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bôn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b.2 và b.3 trên đây;
đ) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;
e) Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai đến ba điểm từ điểm a.l đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này”.
Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội… Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Căn cứ vào các quy định trên, người phạm tội cưỡng đoạt tài sản bị coi là “gây hậu quả rất nghiêm trọng” khi gây ra một trong những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản nêu trên.
Tội cưỡng đoạt tài sản có được hưởng án treo?
Khi phạm tội cưỡng đoạt tài sản nếu muốn được hưởng án treo thì cần phải đáp ứng các điều kiện theo quy định tại nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP cụ thể như sau:
– Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
– Có nhân thân tốt.
– Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
– Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
– Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Thông tin liên hệ:
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về; “Tội cưỡng đoạt tài sản Điều 170”. Nếu quý khách có nhu cầu soạn thảo hồ sơ ngừng kinh doanh; dịch vụ đăng ký bảo hộ thương hiệu, giải thể công ty cổ phần ;tìm hiểu về thủ tục thành lập công ty ở việt nam; đơn xác nhận tình trạng hôn nhân; đăng ký bảo hộ thương hiệu độc quyền hoặc muốn sử dụng dịch vụ tạm ngừng kinh doanh; dịch vụ hợp pháp hóa lãnh sự hà nội của chúng tôi; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Làm sao để biết công ty có đóng bảo hiểm cho mình hay không?
- Pháp luật được nhà nước sử dụng như thế nào?
- Giấy chuyển viện có giá trị bao nhiêu ngày?
Câu hỏi thường gặp:
Thứ nhất, bỏ tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng:, bổ sung các tình tiết “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ”; “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” làm tình tiết tăng nặng định khung hình phạt tại khoản 2.
Thứ hai, bỏ tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng”, bổ sung tình tiết “Lợi dung thiên tại, dịch bệnh” làm tình tiết tăng nặng định khung hình phạt tại khoản 3.
Thứ ba, bỏ tình tiết “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, bổ sung tình tiết “Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” làm tình tiết tăng nặng định khung hình phạt.
Trình trạng về mặt ý chí của nạn nhân
Nạn nhân bị tê liệt về mặt ý chí do hành vi của người phạm tội gây ra , rơi vào tình trạng không thể chống cự được.
Hành vi “sẽ dùng vũ lực” không diễn ra “ngay tức khắc” nên không làm cho nạn nhân bị tê liệt về mặt ý chí mà nạn nhân vẫn có thể chống cự được. Và nạn nhân vẫn còn khả năng, điều kiện để suy nghĩ, cân nhắc, chọn lựa, quyết định hành động trong một giới hạn nhất định.
Dựa theo quy định điều 170 Bộ luật hình sự năm 2015 khung thứ tư: 12 -20 năm là mức phạt cao nhất.