Hoạt động thương mại là những hoạt động kinh tế nhằm mục đích sinh lợi, thế nên không thể tránh khỏi những tranh chấp. Có nhiều phương thức để giải quyết tranh chấp thương mại, tất nhiên phổ biến nhất vẫn là Tòa án. Vậy đặc điểm giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa án là gì? Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu qua bài viết sau đây nhé!
Căn cứ pháp lý
Tranh chấp thương mại là gì?
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra ương hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này cũng như các phương thức giải quyết nó thể hiện thông qua các quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật.
Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy định trong Luật Thương mại năm 1997 (Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế nàm 1994 và Nghị định số 116/1994/NĐ-CP chủ yếu liệt kê các tranh chấp được gọi là các tranh chấp kinh tế như tranh chấp về hợp đồng kinh tế, tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, thành viên công ty với nhau hoặc tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, trái phiếu…). Tại Điều 238 Luật Thương mại quy định: tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Theo đó, nội hàm hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 rất hẹp so với quan niệm quốc tế về thương mại. Hoạt động thương mại chỉ bao gồm ba nhóm: hoạt động mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại (Khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại năm 2005). Tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 đã loại bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các tranh chấp đó có thể được coi là các tranh chấp thương mại, vì vậy đã dẫn đến các xung đột pháp luật trong hệ thống pháp luật, giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, trong đó có cả những Công ước quốc tế quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên (Công ước New York 1958) gây không ít những trở ngại, rắc rối trong thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập.
Luật Thương mại năm 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 đã đưa ra một khái niệm về hoạt động thương mại tương đối giản đơn. Tuy nhiên, khái niệm này cũng đã hàm chứa và lột tả được nội hàm của hoạt động thương mại. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 thì hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Theo khái niệm này, quan niệm về hoạt động thương mại được mở rộng bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này của Luật Thương mại cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã thể hiện sự tương đồng với khái niệm kinh doanh trong bộ luật doanh nghiệp những năm trước đây cũng như Luật Doanh nghiệp năm 2020. Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả công đoạn của quá trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. (Khoản 21 Điều 4 luật doanh nghiệp năm 2020).
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng đã liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án (Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” độc lập mà sử dụng chung thuật ngừ “tranh chấp kinh doanh, thương mại” nhưng nội dung của các tranh chấp về kinh doanh thương mại được quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự thực chất là các tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại năm 2005. Điều đó cho thấy, mặc dù có sự khác nhau về cách thức biểu đạt và ngôn ngữ sử dụng nhưng nhìn chung quan niệm về hoạt động thương mại và tranh chấp thương mại được thể hiện qua các quy định trong các văn bản pháp luật tương đối nhất quán.
Từ việc tiếp cận trên, có thể hiểu:
“Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quả trình thực hiện các hoạt động thương mại.”
Đặc điểm giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa án
Ưu điểm của phương giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
Nếu như việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mang đặc điểm tôn trọng quyền thỏa thuận hay ý chí của các bên tham gia để đưa ra phán quyết thì đặc trưng cơ bản của thủ tục giải quyết tranh chấp bằng tòa án là thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh quyền lực nhà nước đề đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế. Nhờ đó, việc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua tòa án còn trực tiếp góp phần vào việc nâng cao ý thức, tôn trọng pháp luật cho các chủ thể kinh doanh.
– Việc giải quyết có thể qua nhiều cấp xét xử, vì thế nguyên tắc nhiều cấp xét xử bảo đảm cho quyết định của toà án được chính xác, công bằng, khách quan và tuân theo pháp luật.
– Chi phí cho việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại toà án theo quy định của pháp luật thấp hơn rất nhiều so với việc nhờ đến các tổ chức trọng tài thương mại hay trọng tài quốc tế.
Hạn chế của phương giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
Thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua tòa án thưởng dài hơn so với giải quyết tranh chấp bảng trọng tài. Hơn nữa, nguyên tắc xét xứ công khai tại tòa án không phù hợp với tính chất của hoạt động kinh doanh và tâm lý của giới doanh nghiệp, (có thể làm sút giảm uy tín của các bên trên thương trưởng, lộ các bí mật kinh doanh…), ngoài ra, Phán quyết của tòa án bản án xét xứ xong chưa được thi hành ngay thường bị kháng cáo. Quá trình tố tụng có thể bị trì hoãn và kéo dài; có thể phải qua nhiều cấp xét xử; ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, kinh doanh
+ Thủ tục tố tụng tại tòa án thiếu linh hoạt do đã được pháp luật quy định trước đó;
Đối với các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài thì:
+ Phán quyết của tòa án thường khó đạt được sự công nhận quốc tế. Phán quyết của tòa án được công nhận tại một nước khác thường thông qua hiệp định song phương hoặc theo nguyên tắc rất nghiêm ngặt.
+ Mặc dù thẩm phán quốc gia có thể khách quan; họ vẫn phải buộc sử dụng ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng của quốc gia họ và thường cùng quốc tịch với một bên.
Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án
Bước 1: Khởi kiện và thụ lý vụ án
Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện:
Trước tiên cần làm đơn khởi kiện, trong đơn khởi kiện phải có đầy đủ thông tin liên quan của nguyên đơn, bị đơn, những người có liên quan, chứng cứ, và các thông tin cụ thể khác… ( Tham khảo khoản 4, điều 198, BLTTDS 2015 )
Nộp hồ sơ đến tòa án:
– Sau khi hoàn tất thủ hồ sơ khởi kiện thì tiến hành gửi đơn tới Tòa án. ( Tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để nộp đơn )
– Hình thức nộp đơn đến Tòa án có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau: Nộp trực tiếp, gửi bưu điện, gửi trực tuyến qua cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
Lưu ý: Xem xét thẩm quyền của Tòa án để nộp đơn cho phù hợp, nếu không sẽ bị trả hồ sơ
Bước 2: Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án
Xử lý đơn khởi kiện:
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.
+ Nếu hồ sơ khởi kiện thiếu thông tin thì Tòa án yêu cầu đương sự bổ xung thêm thông tin.
+ Nếu đơn kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa thì trả hồ sơ, hoặc chuyển hồ sơ cho tòa án có thẩm quyền, đồng thời thông báo cho người khởi kiện
Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án
+ Nếu hồ sơ hợp lệ, đúng thẩm quyền, đủ thông tin thì tiến hành thủ tục thụ lý vụ án ( Có thể tiến hành thủ tục thông thương hoặc thủ tục rút gọn – Điều kiện, thủ tục thực hiện thủ tục rút gọn được thực hiện theo khoản 1 Điều 317 – BLTTDS 2015)
Tạm ứng án phí cho Tòa án
– Sau khi đã kiểm tra tính hợp lệ, đủ thông tin, thuộc thẩm quyền giải quyết thì Tòa án thông báo cho người khởi kiện biết để nộp tạm ứng án phí.
– Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa án.
– Mức án phí tạm ứng phải nộp là bao nhiêu? Thẩm phán sẽ dự tính số tiền tạm ứng án phí này và thông báo cho người khởi kiện. ( khi nộp tạm ứng án phí thì tất cả đều phải có biên lai )
– Trường hợp người khởi kiện được miễn án phí thì thẩm phán phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện hợp lệ và đầy đủ.
Thông báo về việc thụ lý vụ án
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán phải thông báo cho tất cả các bên có liên quan, đồng thời thông báo Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án.
Các thông báo này sẽ được thực hiện bằng văn bản cụ thể
Bước 3: Chuẩn bị xét xử
Phân công Thẩm phán giải quyết vụ án
– Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án quyết định phân công Thẩm phán giải quyết vụ án. ( Chánh án phân công cho thẩm phán bảo đảm nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu nhiên )
Đối với vụ án phức tạp, việc giải quyết có thể phải kéo dài thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán dự khuyết để bảo đảm xét xử đúng thời hạn theo quy định của luật.
– Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu Thẩm phán được phân công không thể tiếp tục tiến hành được nhiệm vụ thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán khác tiếp tục nhiệm vụ;
Trường hợp đang xét xử mà không có Thẩm phán dự khuyết thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu và Tòa án phải thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp.
Lập hồ sơ vụ án
– Thẩm phán lập hồ sơ vụ án, tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ, làm rõ những tinh tiết khách quan của vụ án.
– Thẩm phán tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng vứ và hòa giải ( Trừ những trường hợp thuộc điều cấm của luật không được hòa giải )
Tiến hành hòa giải
+ Nếu hòa giải thành công ( Trong 7 ngày mà không có ai phản đối ) thì thẩm phán ra quết định công nhận hòa giải và gửi quyết định cho các đương sự và viện kiểm sát cùng cấp
+ Nếu hòa giải không thành công thì thẩm phán lập biên bản không thành công, đồng thời quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Bước 4: Xét xử sơ thẩm
– Xét sử sơ thẩm là lần xét xử đầu tiên. Trong lần này phải có đầy đủ các đương sự ở Tòa án, nếu thiếu 1 trong các đương sự, người đại diện hợp pháp… của 1 trong các bên thì vụ án sẽ được hoãn ( trừ trường hợp người đó có đơn vắn mặt )
– Nếu hoãn thì sẽ được triệu tập lần thứ 2, nếu lần 2 mà vẫn vắng mặt mà không có đơn vắng mặt, hoặc không vì trường hợp bất khả kháng thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện.
– Trường hợp vụ án vẫn được diễn ra theo hình thức xét xử vắng mặt thì lúc này bên đó sẽ không có quyền phản bác cũng như không thể bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình
Bước 5: Xét xử phúc thẩm
– Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ xem xét lại bản án, quyết định này.
– Đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
– Thời hạn kháng cáo đối với tòa cấp sơ thẩm của viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 1 tháng kể từ ngày tuyên án
– Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền giữ nguyên, sửa, hủy toàn bộ, hoặc hủy 1 phần của bản án sơ thẩm, sau đó chuyển hồ sơ cho toàn án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyêt vụ án.
– Bản án phúc thẩm có hiệu lực từ ngày tuyên án
Bước 6: Xem xét lại bản án có hiệu lực
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục tái thẩm.
– Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong những trường hợp sau:
+ Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo đảm.
+ Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn tới việc ra bản án, quyết định không đúng, dẫn tới quyền và lợi ích hợp pháp của họ không được bảo đảm, gây thiệt hại cho người thứ 3, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước.
Bước 7: Thi hành bản án, quyết định của Tòa án
Đây là bước cuối cùng của vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án. Ở bước này thì các bên có quyền thỏa thuận với nhau về việc thi hành án ( Thỏa thuận không được trái pháp luật và đạo đức xã hội )
– Khi các bên thỏa thuận cách thức và hình thức thi hành án thì kết quả thỏa thuận này sẽ được công nhận.
– Nếu đương sự không thực hiện đúng thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơn quan thi hành án áp dụng biện pháp thi hành án theo bản án, quyết định trước đó.
– Nếu đương sự có điều kiện để thi hành án mà không tự nguyện thì sẽ bị thi hành án theo hình thức cưỡng chế.
Trong thời hạn 5 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, đương sự có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án.
Sau 5 ngày kể từ ngày có yêu cầu, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án.
Mời bạn xem thêm bài viết
- Tranh chấp đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
- Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án
- Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp thương mại
- Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là gì?
- Giải quyết tranh chấp đất đai đã có sổ đỏ
Thông tin liên hệ
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư X về vấn đề “Đặc điểm giải quyết tranh chấp thương mại bằng tòa án”. Chúng tôi hi vọng rằng bài viết có giúp ích được cho bạn.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ của Luật sư X về giấy phép vệ sinh an toàn thực phẩm, giấy phép đăng ký kinh doanh, giấy phép thương mại điện tử, giấy phép thành lập doanh nghiệp, …. Hãy liên hệ qua số điện thoại: 0833.102.102.
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Theo điểm b khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tranh chấp thương mại là 2 tháng. Trong trường hợp bất khả kháng hoặc vì lý do khách quan thì thời hạn nên trên được gia hạn tối đa không quá 1 tháng.
Và trong thời hạn 01 tháng, từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; nếu có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng (khoản 4 Điều 203).
– Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ: Tranh chấp thương mại trong nước và tranh chấp thương mại quốc tế.
– Căn cứ vào số lượng các bên tranh chấp: Tranh chấp thương mại hai bên và tranh chấp thương mại nhiều bên.
– Căn cứ vào lĩnh vực tranh chấp: Tranh chấp liên quan đến hợp đồng, tranh chấp về sở hữu trí tuệ, đầu tư,…
– Căn cứ vào quá trình thực hiện: Tranh chấp trong quá trình đàm phán soạn thảo ký kết hợp đồng, và tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng.
– Căn cứ vào thời điểm phát sinh tranh chấp: Tranh chấp thương mại hiện tại và tương lai.
Tranh chấp thương mại đòi hỏi được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Ngoài Tòa án, hiện nay tranh chấp thương mại được giải quyết bằng các phương thức : thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại. Mỗi phương thức có sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành.