Ly thân và ly hôn là hai khái niệm thường bị người dân nhầm lẫn với nhau. Khác với ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân trên pháp luật, ly thân mới chỉ là việc hai vợ chồng quyết định không chung sống cùng nhau trong một khoảng thời gian để chiêm nghiệm suy nghĩ. Tuy nhiên, trong thời gian này có nhiều vấn đề phát sinh liên quan đến mối quan hệ vợ chồng chẳng hạn như mối quan hệ thừa kế. Vậy liệu xét dưới góc độ pháp luật, Vợ đã ly thân có được hưởng thừa kế hay không? Quy định về các trường hợp vợ đã ly thân được hưởng thừa kế gồm những trường hợp nào? Ly thân có chấm dứt quan hệ vợ chồng chưa? Đừng lo lắng, Luật sư X sẽ giải đáp tất tần tật về vấn đề này qua bài viết bên dưới.
Căn cứ pháp lý
Ly thân có chấm dứt quan hệ vợ chồng chưa?
Hiện nay, trong tất cả các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình không có khái niệm ly thân. Ly thân là một khái niệm mô tả những cặp vợ chồng đã hết tình cảm và họ không còn chung sống với nhau nữa. Tuy nhiên, vì một số lý do, ví dụ như con cái, tạo cho nhau điều kiện để khắc phục lỗi lầm,…nên họ sẽ tự thỏa thuận với nhau để sống ly thân. Do pháp luật Việt Nam chưa có quy định về ly thân nên có rất nhiều quan điểm với cách hiểu khác nhau. Trên thực tế hiện nay, ly thân được nhìn nhận như một hiện tượng xã hội, là một quan hệ xã hội xảy ra trong đời sống vợ chồng.
Theo quy định tại khoản 14 Điều 3, khoản 1 Điều 57, Điều 65 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì quan hệ hôn nhân sẽ chấm dứt trong các trường hợp sau:
– Bản án, quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật của Tòa án;
– Thời điểm vợ hoặc chồng chết;
– Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng đã chết. Đối với trường hợp này, thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết mà được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.
Như vây, ly thân không thuộc vào các trường hợp làm chấm dứt mối quan hệ vợ chồng. Vì vậy, khi ly thân, vợ chồng vẫn còn có các quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo đúng quy định pháp luật hôn nhân gia đình và các văn bản pháp luật liên quan.
Vợ đã ly thân có được hưởng thừa kế hay không?
Ly thân là một hiện tượng xảy ra trên thực tế trong quan hệ vợ chồng. Việc ly thân có thể diễn ra bởi nhiều lý do, trong đó lý do cơ bản nhất là giữa vợ chồng xảy ra những bất đồng, mâu thuẫn làm ảnh hưởng sâu sắc đến tình cảm giữa hai bên mà chưa thể giải quyết được. Trong những trường hợp này, trên thực tế, vợ chồng thường lựa chọn giải pháp sống riêng biệt nhau nhằm giảm bớt, giải tỏa sự căng thẳng, mâu thuẫn. Mặc dù hiện nay ở nước ta, ly thân tuy vẫn tồn tại như một hiện tượng xã hội có tính khách quan, nhưng chưa được pháp luật điều chỉnh.
Theo quy định tại Điều 655 của Bộ luật dân sự 2015 có quy định về việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; vợ, chồng đang xin ly hôn hoặc họ đã kết hôn với người khác, cụ thể như sau:
– Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân vẫn còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản;
– Trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng một bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu như một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản;
– Người đang là vợ hoặc chồng của một người ngay tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã thực hiện kết hôn với người khác thì vẫn được thừa kế di sản.
Mặt khác, tại Điều 621 của Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định các đối tượng không được hưởng di sản, cụ thể bao gồm những đối tượng sau:
– Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người đó;
– Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
– Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm để được hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
– Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; có hành vi giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm để hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Từ các quy định nêu trên cho thấy, ly thân không thuộc vào các đối tượng không được hưởng quyền di sản. Trường hợp ly thân mà vẫn chưa làm thủ tục ly hôn hoặc đang xin ly hôn nhưng chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng một bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật thì nếu chồng chết trong thời điểm này thì người vợ còn sống vẫn được hưởng thừa kế di sản của chồng.
Quy định về các trường hợp vợ đã ly thân được hưởng thừa kế
Khái niệm ly thân được hiểu một cách đơn giản là hai vợ chồng sống chung hoặc sống riêng nhưng không có quan hệ vợ chồng. Như đã phân tích ở mục trên, khi vợ, chồng ly thân mà vẫn chưa làm thủ tục ly hôn hoặc đang xin ly hôn nhưng chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng một bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật thì nếu chồng chết trong thời điểm này thì người vợ còn sống vẫn được hưởng thừa kế di sản của chồng.
Quy định về các trường hợp vợ đã ly thân được hưởng thừa kế như sau:
Thừa kế theo di chúc:
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Người lập di chúc có các quyền sau đây:
– Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
– Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
– Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
– Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
– Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Bởi thừa kế theo di chúc chính là thực hiện theo ý chí của cá nhân người để lại di sản, tuy nhiên di chúc đó phải tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật. Trong trường hợp này, mặc dù vợ, chồng đang ly thân với nhau, chưa làm thủ tục ly hôn hoặc đang xin ly hôn nhưng chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng một bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng trong di chúc của chồng (người chết có để lại di sản) có chỉ định vợ của mình (người còn sống) được hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản thì người được chỉ định hưởng di sản là vợ đang còn sống hoàn toàn được quyền hưởng di sản đó theo di chúc, nếu di chúc đó có hiệu lực.
Thừa kế theo pháp luật:
Theo Điều 649 của Bộ luật Dân sự 2015 quy định, thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế theo các quy định của Bộ luật Dân sự 2015.
Theo quy định tại Điều 650 của Bộ luật Dân sự 2015, chia thừa kế theo pháp luật trong các trường hợp sau đây:
– Không có di chúc;
– Di chúc không hợp pháp;
– Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
– Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 650 của Bộ luật Dân sự 2015, khi chia thừa kế theo di chúc, vẫn có thể chia thừa kế theo pháp luật trong những trường hợp sau đây:
– Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
– Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
– Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng phần di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc.
Như vậy, nếu chồng chết không để lại di chúc thì di sản sẽ được chia theo pháp luật. Thêm nữa, vợ chồng ly thân mà vẫn chưa làm thủ tục ly hôn hoặc đang xin ly hôn nhưng chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng một bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật thì vợ chồng vẫn có quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo đúng quy định pháp luật hôn nhân gia đình. Chính vì thế, trong trường hợp này, nếu như chồng chết thì người vợ hoàn toàn được quyền hưởng phần di sản theo quy định của pháp luật về thừa kế theo pháp luật, bởi Điều 651 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định vợ là một trong những người nằm trong hàng thừa kế thứ nhất và đương nhiên người này hoàn toàn được quyền hưởng phần di sản bằng với những đồng thừa kế còn lại.
Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc:
Những người sau đây họ vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp mà họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
– Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
– Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Nếu như chồng chết có để lại di chúc, nhưng trong nội dung di chúc không chỉ định người vợ (người còn sống) được hưởng di sản hoặc có chỉ định nhưng cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba của một người thừa kế theo pháp luật thì người vợ còn sống đó vẫn được hưởng phần di sản sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, bởi lẽ vợ, chồng mới chỉ đang ly thân nhưng chưa làm thủ tục ly hôn hoặc đang xin ly hôn nhưng chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định mà chưa có hiệu lực pháp luật thì vợ chồng vẫn có quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định pháp luật hôn nhân gia đình, pháp luật về thừa kế và các luật khác có liên quan. Trừ các trường hợp sau thì người vợ mới không được thừa kế trong trường hợp này:
– Người vợ bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người chồng, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của chồng;
– Người vợ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người chồng;
– Người vợ bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng những người thừa kế khác nhằm để hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
– Người vợ có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người chồng trong việc lập di chúc; người vợ giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm để hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Mời bạn xem thêm:
- Thủ tục xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất
- Chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất
- Quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu bị hạn chế khi nào?
Khuyến nghị
Với phương châm “Đưa luật sư đến ngay tầm tay bạn”, Luật sư X sẽ cung cấp dịch vụ thừa kế đất đai tới quý khách hàng. Với kinh nghiệm nhiều năm trong ngành và đội ngũ chuyên gia pháp lý chuyên nghiệp, chúng tôi sẽ hỗ trợ khách hàng tháo gỡ vướng mắc, không gặp bất kỳ trở ngại nào.
Thông tin liên hệ
Luật sư X sẽ đại diện khách hàng để giải quyết các vụ việc có liên quan đến vấn đề “Vợ đã ly thân có được hưởng thừa kế hay không?” hoặc các dịch vụ khác liên quan như là tư vấn pháp lý về giá làm sổ đỏ. Với kinh nghiệm nhiều năm trong ngành và đội ngũ chuyên gia pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ hỗ trợ quý khách hàng tháo gỡ vướng mắc, không gặp bất kỳ trở ngại nào. Hãy liên lạc với số hotline 0833.102.102 để được trao đổi chi tiết, xúc tiến công việc diễn ra nhanh chóng, bảo mật, uy tín.
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ theo Điều 653 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ
Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này.
Như vậy con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định pháp luật.
Có những trường hợp khi đang hoặc đã ly hôn, người vợ vẫn có thể được hưởng di sản thừa kế từ chồng cũ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Khi đang tiến hành thủ tục ly hôn: Khi một trong hai người chết trong thời gian hai vợ chồng đang tiến hành thủ tục ly hôn và bản án hoặc quyết định ly hôn của Tòa chưa có hiệu lực pháp luật thì người còn sống vẫn được hưởng thừa kế. Do đó khi một trong hai người chết trong thời gian hai vợ chồng đang tiến hành thủ tục ly hôn và bản án hoặc quyết định ly hôn của Tòa chưa có hiệu lực pháp luật thì quan hệ thừa kế vẫn phát sinh, người còn sống vẫn được hưởng thừa kế.
Khi đã kết hôn với người khác : Tại thời điểm người chồng chết, hai người vẫn là vợ chồng. Sau này, khi phân chia di sản thừa kế của người chồng, dù người vợ đã kết hôn với người khác thì vẫn được hưởng di sản thừa kế do chồng cũ để lại. Bởi thời điểm người chồng cũ chết, quan hệ hôn nhân giữa hai người vẫn tồn tại. Do đó, người vợ vẫn thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản thừa kế.
Được hưởng thừa kế từ con chung với chồng cũ: Người chồng cũ chết trước và con chung của hai vợ chồng chết sau thì người vợ cũ cùng với những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người con sẽ được hưởng phần di sản thừa kế mà lẽ ra người này được hưởng từ bố. Di sản của đứa con sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Người vợ cũ trong trường hợp này là hàng thừa kế thứ nhất của đứa con với chồng cũ . Do đó người vợ cũ có quyền hưởng di sản thừa kế do chồng cũ để lại.