Tranh chấp tài sản sản của vợ chồng luôn là vấn đề phức tạp. Cùng 1 vấn đề chung là tranh chấp tài sản, nhưng mỗi trường hợp lại có tính chất khác nhau. Phòng tư vấn pháp lý hôn nhân của Luật sư X xin đưa ra tư vấn cho trường hợp cụ thể dưới đây.
Căn cứ pháp lý
Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
Nội dung tư vấn
Tình huống
Ông L.H và Bà N.C chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 1980 mà không đăng ký kết hôn. Hai người có 2 con chung là A và L. Năm 1985, ông H có quan hệ thân thiết với bà Q. Đến năm 1988 ông cùng bà Q bỏ đi khỏi địa phương để cùng chung sống với nhau, giữa họ có 6 con chung. Năm 1989 bà C được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng 1040m2 đất. Năm 2015, ông H yêu cầu Tòa án chia tài sản là 1040m2 đất của vợ chồng ông (tức ông H và bà C).
Tranh chấp tài sản giữa vợ chồng ông H và C giải quyết thế nào?
Xác định quan hệ của ông H và bà C
Theo khoản 2 điều 44 Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hộ tịch:
Đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng; trước ngày 03 tháng 01 năm 1987; mà chưa đăng ký kết hôn; thì được khuyến khích và tạo điều kiện để đăng ký kết hôn. Quan hệ hôn nhân được công nhận; kể từ ngày các bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng.
Như vậy, ông L.H và bà N.C được coi là vợ chồng; và đang trong quan hệ hôn nhân.
Giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng trong trường hợp mảnh đất là tài sản riêng của bà C
Điều kiện xác định tài sản tranh chấp có phải tài sản riêng của bà C không;cần xem xét điều 43 Luật HNGĐ 2014:
Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng
1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.
Trường hợp quyền sử dụng đất của bà C được cấp là tài sản được tặng cho riêng; hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng; thì đó là tài sản riêng của bà C.
Như vậy, ông H không được chia tài sản đối với mảnh đất 1040m2 thuộc quyền sử dụng đất của bà C.
Giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng trong trường hợp mảnh đất là tài sản chung của ông H và bà C
Điều kiện xác định tài sản tranh chấp có phải tài sản chung của ông H và bà C không
Cần xem xét điều 33 Luật HNGĐ 2014:
Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra; thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng; và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung; hoặc được tặng cho chung; và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng; trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng; được tặng cho riêng; hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất; được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình; thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ; chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên; thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Trường hợp mảnh đất 1040m2 được xác định là tài sản chung của ông H và bà C; theo căn cứ pháp lý là điều 33 LHNGĐ 2014; thì ông H được chia tài sản đối với mảnh đất 1040m2.
Tranh chấp giữa ông H và bà C giải quyết thế nào?
Theo khoản 2 điều 59 LHNGĐ 2014 quy định:
Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.”
Vậy, trong trường hợp ông H được chia tài sản mảnh đất đất 1040m2; thì Tòa án cũng sẽ cân nhắc các yếu tố trên để chia tài sản hợp lý nhất; tránh các tranh chấp kéo dài do bất công.
Hy vọng bài viết sẽ có ích cho bạn đọc!
Để biết thêm thông tin chi tiết, tham khảo thêm dịch vụ tư vấn của Luật sư X hãy liên hệ 0833102102
Theo quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật hôn nhân gia đình 2014 thì: “Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.
Căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; quy định về việc trông nom; chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục con; sau khi ly hôn như sau:
“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom; chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên; con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này; Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con; nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi; căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi; trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom; chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Tại khoản 7 Điều 3 Luật HNGĐ 2014 quy định:
“Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung; và coi nhau là vợ chồng.“
Tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC quy định:
“Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung; được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng; có tài sản chung đã được gia đình cơ quan; đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó.“
Như vậy, để xác định việc chung sống như vợ chồng; được chứng minh bằng việc có con chung; hoặc được hàng xóm, xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung.
Luật Hôn nhân và gia đình có quy định rõ về tài sản chung của vợ chồng. Theo đó gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh; và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung; hoặc được tặng cho chung; và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Luật cũng quy định: “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng; mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu; thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng”.
Như vậy, cả trong trường hợp nếu chỉ đứng tên một người; mà không có chứng cứ chứng minh là tài sản riêng; thì theo luật vẫn bị coi là tài sản chung.