Xin chào Luật sư. Tôi tên là Quỳnh. Do hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên tôi lên đây mong được luật sư giải đáp thắc mắc. Cụ thể đó là Tranh chấp con cái khi chưa đăng ký kết hôn? Hậu quả của việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn? Mong sớm nhận được phản hồi từ quý Luật sư.
Cảm ơn quý khách hàng đã tin tưởng đặt câu hỏi, dưới đây là phần giải đáp thắc mắc của Luật sư X :
Căn cứ pháp lý
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
Tranh chấp con cái khi chưa đăng ký kết hôn?
Khi có tranh chấp về quyền nuôi con dù không có đăng kí kết hôn Tòa án vẫn thụ lý và giải quyết như sau:
Về nguyên tắc, việc ai là người nuôi con có thể được các bên đương sự tự thỏa thuận với nhau và được tòa án ghi nhận trong bản án. Sau khi phân chia quyền nuôi con thì một bên vẫn có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con khi chưa thành niên (dưới 18 tuổi) hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng (mức cấp dưỡng tùy theo điều kiện kinh tế hoặc theo thỏa thuận) để người kia chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi trưởng thành.
Tuy nhiên, nếu hai người không thể thỏa thuận được với nhau thì toà án sẽ có quyền phán xét, giao quyền nuôi con cho một bên vợ hoặc chồng. Quyết định của tòa án căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt và hướng tới tương lai tốt đẹp của con. Các quyền lợi đó có thể là: điều kiện học tập, điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng …
Theo pháp luật hôn nhân hiện hành với qui định nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên thì toà án sẽ hỏi ý kiến, nguyện vọng của con. Riêng trường hợp, nếu con dưới 3 tuổi thì, về nguyên tắc, tòa sẽ giao cho người mẹ nuôi dưỡng – ngoại trừ trường hợp người mẹ không muốn nuôi con.
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam qui định trong tất cả các trường hợp, người không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền thăm nom con, có thể theo định kỳ hoặc thường xuyên theo thoả thuận của hai bên và không ai được cản trở quyền này. Nếu người không nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu toà án hạn chế quyền thăm nom con của người kia.
Hậu quả của việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Theo quy định pháp luật, nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình 2014, cụ thể:
- Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con;
- Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Quyền và nghĩa của cha mẹ đối với con khi không có đăng ký kết hôn
Như đã được đề cập, pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ giữa nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con, cụ thể gồm các điều sau đây:
- Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội;
- Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
- Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự;
- Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Thay đổi người trực tiếp nuôi con
Tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng có thể xảy ra đối với nam nữ có con chung nhưng không đăng ký kết hôn. Theo quy định pháp luật, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định thì Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
- Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
- Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật sư X về vấn đề “Tranh chấp con cái khi chưa đăng ký kết hôn như thế nào?“. Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến dịch vụ đăng ký xác nhận tình trạng hôn nhân; tạm ngừng kinh doanh chi nhánh; mẫu đơn xin giải thể công ty, Đổi tên giấy khai sinh Hồ Chí Minh, của Luật sư , hãy liên hệ: 0833102102 . Ngoài ra , để được tư vấn cũng như trả lời những thắc mắc của khách hàng trong và ngoài nước thông qua web Luatsux.vn, lsx.vn, web nước ngoài Lsxlawfirm,…
Có thể bạn quan tâm
- Giấy đăng ký kết hôn bị sai thông tin xử lý sao?
- Thay đổi số CMND trên đăng ký kết hôn có bắt buộc không?
- Sống chung như vợ chồng có nghĩa vụ trả nợ thay hay không?
Các câu hỏi thường gặp
Khác với vợ chồng có đăng ký kết hôn, khi hai người chung sống không có đăng ký kết hôn khi không ở chung với nhau nữa sẽ không tiến hanh thủ tục ly hôn và việc chia tài sản chung cũng không áp dụng các nguyên tắc phân chia tài sản chung khi ly hôn.
Theo Điều 16 Luật hôn nhân gia đình 2014, việc phân chia tài sản chung của vợ chồng không đăng ký kết hôn được giải quyết:
Được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên;
Trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
Về nguyên tắc, việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Như vậy, khi hai bên muốn phân chia tài sản chung thì hai bên sẽ thỏa thuận phân chia tài sản đó như thế nào. Trong trường hợp không phân chia được thì hai bên khởi kiện tại Tòa án để giải quyết tranh chấp chia tài sản.
Nguyên tắc phân chia tài sản chung được Điều 219 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
Nếu tình trạng tài sản chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của hai bên hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó;
Khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác;
Trường hợp có nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trên thực tế, khi thỏa thuận phân chia tài sản, hai bên vợ chồng thường dễ dẫn đến tranh chấp vì hai bên thường mong muốn phần tài sản của minh nhiều hơn, lợi ích của minh được đảm bảo tốt nhất.
Nếu khi ly hôn tài sản chung thường được chia đôi cho hai bên vợ chồng thì khi phân chia tài sản vợ chồng không giấy đăng ký kết hôn dựa trên Điều 219 Bộ luật dân sự 2015 nên phần tài sản chia có thể có sự chênh lệch và dẫn đến nhiều vấn đề rắc rối hơn để có thể phân chia tài sản một cách hợp lý.
Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội quy định: Từ ngày 1/1/2001, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật chấp nhận là vợ chồng…
Theo khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.
Tại khoản 1Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn”.
Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định vềtổ chức đăng ký kết hôn như sau: “Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên”.
Tại khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của luật này được thực hiện như sau:
a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 1/1/2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 1/1/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
c) Kể từ ngày 1/1/2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật chấp nhận là vợ chồng…”.
Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:
– Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
– Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tai Khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.