Chào Luật sư X, 03 ngày trước tôi nghe tiếng la của con tôi trước cổng nhưng sau khi ra ngoài thì không thấy con đâu, lo lắng nên tôi đã kiểm tra camera thì phát hiệ có 2 người đàn lạ dừng chiếc xe hơi trước nhà và bắt cóc con tôi. Dù đã trình báo lên công an nhưng vẫn chưa tìm được tung tích. Hôm nay bọn chúng đã chủ động liên lạc với gia đình tôi để yêu cầu khoản tiền chuộc là 500.000.000 đồng và nếu không giao tiền đúng thời hạn thì chúng sẽ bán đứa trẻ sang biên giới. Hiện tôi đã trình bày thêm tình hình cho công an, nhờ công an vào cuộc điều tra vay bắt tội phạm. Vậy hiện nay quy định tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản năm 2023 như thế nào? Xin được tư vấn.
Chào bạn, cảm ơn câu hỏi của bạn. Để giải đáp câu hỏi trên mời bạn hãy cùng Luật sư X tìm hiểu qua bài viết sau nhé.
Căn cứ pháp lý
Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi gì?
Hành vi bắt cóc là hành vi bắt giữ người trái phép. Người bị bắt giữ có thể là trẻ em hoặc là người lớn có quan hệ tình cảm thân thiết với chủ tài sản. Hành vi bắt cóc được thực hiện nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu việc bắt cóc không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mà nhằm vào một mục đích khác thì hành vi bắt cóc không cấu thành tội này.
Ví dụ: nếu sự việc chỉ dừng lại ở việc bắt giữ con gái của A mà không có hành vi đòi tiền chuộc của B thì không cấu thành tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà có thể là hành vi khách quan của tội bắt, giam, giữ người trái pháp luật.
Căn cứ pháp lý của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi bắt người làm con tin nhằm buộc người khác phải nộp cho mình một khoản tiền hoặc tài sản thì mới thả người bị bắt.
Bắt người làm con tin là bắt và giữ lại để buộc người muốn chuộc phải bảo đảm thực hiện một lời hứa nhằm thoả mãn một yêu sách của người bắt, nhưng chỉ bắt người làm con tin nhằm buộc người muốn chuộc phải giao tài sản hoặc một số tiền thì mới là bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu bắt cóc nhằm mục đích khác thì không phải là bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà tùy trường hợp cụ thể mà người có hành vi bắt cóc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng.
Theo đó, Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được quy định tại chương XVI liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu, theo đó tội danh này được quy định tại Điều 169 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã sửa đổi bổ sung năm 2017), cụ thể như sau:
“Điều 169. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
- Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Dùng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
d) Đối với người dưới 16 tuổi;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
g) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
i) Tái phạm nguy hiểm
- Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Các yếu tố cấu thành tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Chủ thể
Đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội cướp tài sản. Theo quy định tại khoản 2 điều 12 BLHS 2015 thì: Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Như vậy người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự và không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.
Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt.
Khách thể
Đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, khách thể của tội phạm bao gồm cả quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân, hay nói cách khác, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là tội phạm cùng một lúc xâm phạm hai khách thể, nhưng khách thể bị xâm phạm trước là quan hệ nhân thân, thông qua việc xâm phạm đến nhân thân mà người phạm tội xâm phạm đến quan hệ tài sản, nếu không xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản không thể xâm phạm đến quan hệ tài sản được.
Do tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể (quyền sở hữu tài sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân và quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe của con người), nên trong cùng một vụ án có thể có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có nhiều người bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản; có người bị hại bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; có người bị hại bị xâm phạm đến cả tài sản, tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự
Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:
a) Có hành vi bắt giữ người khác làm con tin. Được hiểu là hành vi của người phạm tội thực hiện việc bắt giữ người trái pháp luật nhằm tạo ra điều kiện gây áp lực buộc người bị hại phải giao tài sản bằng nhiều phương thức thủ đoạn khác nhau như dùng vũ lực khống chế để bắt giữ người, dùng thủ đoạn lừa dối để bắt giữ người, dùng thuốc gây mê để bắt giữ người…
Đặc điểm của việc bắt cóc là: Đối tượng bị bắt cóc thông thường phải là người có quan hệ huyết thống (cha, mẹ, con, anh, chị, em), quan hệ hôn nhân (vợ, chồng) hoặc quan hệ tình cảm, xã hội thân thiết khác (ông, bà, cha nuôi, mẹ nuôi, người yêu…) với người bị hại mà người phạm tội dự định đưa ra yêu cầu trao đổi bằng tài sản để chiếm đoạt.
b) Gây áp lực đòi người bị hại giao tài sản để đổi lấy người bị bắt giữ. Được hiểu là sau khi thực hiện xong hành vi bắt cóc con tin thì người phạm tội thực hiện việc gây sức ép về mặt tinh thần đối với người bị hại bằng việc đe dọa gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe của con tin… nhằm buộc người bị hại phải giao một số tài sản để đối lấy sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, kể cả nhân phẩm, tự do của người bị bắt cóc với các hình thức như: Nhờ người khác thông báo, thông báo qua điện thoại, viết thư,…
Thời điểm tội phạm hoàn thành được tính kể từ lúc người phạm tội có hành vi bắt cóc người khác làm con tin (với mục đích để chiếm đoạt tài sản) để đòi chuộc bằng tài sản.
Lưu ý:
Việc chiếm đoạt được tài sản hay chưa không phải là dấu hiệu cấu thành cơ bản tội này. (không bắt buộc có dấu hiệu này)
Người chuẩn bị phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Mặt chủ quan
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản năm 2023
Theo quy định tại Điều 169 Bộ Luật Hình Sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như sau:
– Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
- Có tổ chức;
- Có tính chất chuyên nghiệp;
- Dùng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
- Đối với người dưới 16 tuổi;
- Đối với 02 người trở lên;
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11 % đến 30%;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tái phạm nguy hiểm.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
- Làm chết người;
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
– Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
– Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Có thể bạn quan tâm:
- Thời gian khiếu nại nghĩa vụ quân sự
- Quy trình tuyển quân nghĩa vụ quân sự
- Công dân nam đủ bao nhiêu tuổi trở lên phải đăng ký nghĩa vụ quân sự?
Thông tin liên hệ
Luật sư X sẽ đại diện khách hàng để giải quyết các vụ việc có liên quan đến vấn đề “Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản năm 2023” hoặc các dịch vụ khác liên quan như là tư vấn pháp lý về kết hôn với người nước ngoài. Với kinh nghiệm nhiều năm trong ngành và đội ngũ chuyên gia pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ hỗ trợ quý khách hàng tháo gỡ vướng mắc, không gặp bất kỳ trở ngại nào. Hãy liên lạc với số hotline 0833102102 để được trao đổi chi tiết, xúc tiến công việc diễn ra nhanh chóng, bảo mật, uy tín.
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsu
Câu hỏi thường gặp
Cũng như tội cướp tài sản, hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt không phải là yêu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi bắt cốc người làm con tin là tội phạm đã hoàn thành, Tuy nhiên, nếu gây hậu quả tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.
Trường hợp phạm tội chưa bắt cóc được người là con tin vì những lý do khác nhau, thì thuộc trường hợp phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn phạm tội ( chuẩn bị phương tiện, dụng cụ…để bắt cóc nhưng bắt không được ), nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 134 thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì khoản 1 Điều 134 chỉ là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định Điều 17 Bộ luật hình sự thì người chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Cũng như đối với các tội cướp tài sản, hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt có thể là tài sản nhưng cũng có thể là tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Khi xác định hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra mới là hậu quả do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra mới là hậu quả của tội bắt cóc tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ( có mối quan hệ nhận quả giữa hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản với hậu quả xảy ra ). Nếu hậu quả xảy ra không phải do hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản gây ra, thì không coi là hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, mà tùy vào từng trường hợp phạm tội có thể bị truy cứu về một tội phạm khác.
Cũng giống như các tội loại tội phạm khác, khi chủ thể xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ thì mọi người đều có quyền được sự hỗ trợ, bảo vệ từ các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Trong trường hợp bị bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản cá nhân bị xâm phạm có thể liên hệ các cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự để tổ giác và báo tin về tội phạm: Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản theo quy định của Luật tố cáo số 03/2011/QH13.
Trường hợp việc bắt cóc không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản nhưng trái ý muốn của người bị bắt cũng có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt giữ người trái pháp luật.
Đối với những chủ thể là con ruột, dưới 1 tuổi chưa rõ nhận thức nhưng cha hoặc mẹ bắt giữ con trái với mong muốn của người quản thúc (người trực tiếp nuôi dương) có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt người dưới 01 tuổi tại Điều 152 Bộ Luật hình sự 2015