Chào Luật sư, tôi là người theo đạo tin lành và có dự định thành lập một tổ chức tinh lành nhưng vẫn có vướng mắc về vấn đề tư cách pháp nhân của tổ chức. Luật sư cho tôi hỏi Tổ chức Tin lành chưa được công nhận tư cách pháp nhân đúng không? Tôi xin chân thành cảm ơn luật sư rất nhiều vì đã trả lời câu hỏi của tôi.
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Để có thể cung cấp cho bạn thông tin về Tổ chức Tin lành chưa được công nhận tư cách pháp nhân đúng không? Luật sư X mời bạn tham khảo bài viết dưới đây của chúng tôi.
Căn cứ pháp lý
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016
Tổ chức tôn giáo có gì khác so với cơ sở tôn giáo?
Căn cứ quy định tại khoản 12, khoản 13 và khoản 14 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016, tổ chức tôn giáo và cơ sở tôn giáo được hiểu như sau:
“12. Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo.
13. Tổ chức tôn giáo trực thuộc là tổ chức thuộc tổ chức tôn giáo, được thành lập theo hiến chương, điều lệ, quy định của tổ chức tôn giáo.
14. Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, trụ sở của tổ chức tôn giáo, cơ sở hợp pháp khác của tổ chức tôn giáo.”
Có thể dễ dàng phân biệt được, tổ chức tôn giáo là tập hợp một nhóm người là tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành,… của một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định và nhận được sự công nhận của Nhà nước để thực hiện các hoạt động tôn giáo một cách hợp pháp. Còn cơ sở tôn giáo là một địa điểm, bao gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, trụ sở của tổ chức tôn giáo, cơ sở hợp pháp khác của tổ chức tôn giáo.
Tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo được quy định như thế nào?
Quy định tại Điều 30 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Cụ thể như sau:
1. Tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
2. Tổ chức tôn giáo đề nghị UBND cấp tỉnh đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở một tỉnh; cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở Trung ương đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh cấp đăng ký pháp nhân phi thương mại cho tổ chức tôn giáo trực thuộc khi đáp ứng các điều kiện: Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Tổ chức Tin lành chưa được công nhận tư cách pháp nhân đúng không?
Các tổ chức Tin Lành đã được Nhà nước Việt Nam công nhận
1. Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam)
Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam), tiền thân là “Hội Tin Lành Đồng Pháp” thành lập năm 1927. Hội thánh được Nhà nước công nhận tổ chức năm 2001, hoạt động theo đường hướng “Sống phúc âm phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc“.
2. Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc)
Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) vốn cùng tổ chức với Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam). Hội thánh được thành lập năm 1955 trên cơ sở chia tách từ Hội thánh Tin Lành Việt Nam vì lý do chiến tranh và bối cảnh chia cắt đất nước vào năm 1954.
3. Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam
Thành lập ngày 01/9/1956 do một số mục sư, truyền đạo vốn là thành viên sáng lập Hội thánh Tin Lành Việt Nam, trong đó có giáo sĩ Gordon Smith – nguyên là giáo sĩ của Hội Truyền giáo CMA.
4. Tổng hội Báp-tít Việt Nam, tên gọi cũ là Tổng hội Báp-tít Việt Nam (Ân điển – Nam Phương)
Được thành lập vào ngày 18/11/1962 thuộc hệ phái Báp-tít Nam Phương (Hoa Kỳ). Năm 2008, Tổng hội được Nhà nước công nhận tổ chức.
5. Giáo hội Báp-tít Việt Nam (tên gọi cũ là Hội thánh Báp-tít Việt Nam (Nam Phương) Cùng gốc với Tổng hội Báp-tít Việt Nam, hình thành ở Việt Nam trước năm 1975, phục hồi hoạt động vào năm 1986. Hội thánh được Nhà nước công nhận vào năm 2008, hoạt động theo đường hướng: “Kính Chúa, yêu người, sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc, gắn bó dân tộc và tuân thủ pháp luật“.
6. Hội thánh Tin Lành Trưởng lão Việt Nam
Hệ phái Trưởng lão truyền vào miền Nam Việt Nam từ năm 1968 và được chính quyền Sài Gòn cấp phép hoạt động năm 1972. Sau năm 1975 ngừng hoạt động về mặt tổ chức và phục hồi hoạt động vào năm 1989. Năm 2008 Hội thánh được Nhà nước công nhận về mặt tổ chức.
7. Hội thánh Mennonite Việt Nam
Hệ phái Mennonite vào hoạt động ở miền Nam từ năm 1954 dưới danh nghĩa một tổ chức cứu trợ xã hội với tên gọi là Ủy ban Trung ương Mennonite (Mennonite Central Commitee – MCC). Sau năm 1975 hầu hết các cơ sở của Hội thánh hiến cho các hoạt động từ thiện xã hội. Hội thánh mới khôi phục hoạt động vào năm 1981 sau khi MCC trở lại viện trợ nhân đạo ở Việt Nam. Năm 2009 Hội thánh được Nhà nước công nhận tổ chức.
8. Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam
Nguồn gốc từ Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam), được chính quyền cũ công nhận năm 1974. Sau năm 1975, Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam hoạt động mờ nhạt cho đến những năm 80 của thế kỷ XX mới hoạt động trở lại.
9. Hội thánh Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam
Tổ chức Hội chúng của Chúa (Assemblies of God – AG) thuộc hệ phái Ngũ tuần có mặt ở Sài Gòn năm 1957, đến năm 1973 Bộ Nội vụ chính quyền Sài Gòn ra văn bản cho phép hoạt động.
Các tổ chức Tin Lành chưa được Nhà nước Việt Nam công nhận
Ngoài các tổ chức đã được Nhà nước công nhận nêu trên, ở Việt Nam còn có hơn 70 tổ chức Tin Lành chưa được Nhà nước công nhận về tổ chức do chưa đủ điều kiện quy định tại Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Tính đến tháng 3/2015, các tổ chức này có khoảng 79 ngàn người tin theo trong đó khoảng 14 ngàn, tương đương với 17,8% tín đồ là thị dân (Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ và tỉnh Khánh Hòa) 60 ngàn tín đồ, tương đương với 75,9% tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số (phân bố ở khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước). Tuy chưa được Nhà nước công nhận về tổ chức, nhưng các tổ chức Tin Lành cũng đã công nhận và tấn phong khoảng 350 chức sắc. Tất cả các tổ chức Tin Lành chưa được công nhận hiện nay ở Việt Nam đều không có cơ sở tôn giáo, kể cả những tổ chức có nguồn gốc hình thành từ trước năm 1975./
Mời bạn xem thêm:
- Giá trị sử dụng của Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
- Thủ tục sang tên xe máy khi chủ xe đã chết năm 2022
- Đòi nợ thuê được quy định như thế nào trong pháp luật hiện hành
Thông tin liên hệ với Luật sư X
Trên đây là toàn bộ những kiến thức mà Luật sư X chia sẻ với các bạn về “Tổ chức Tin lành chưa được công nhận tư cách pháp nhân đúng không?“. Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu quý khách hàng có thắc mắc về các vấn đề: Đổi tên giấy khai sinh Hồ Chí Minh, đơn xác nhận độc thân, xác nhận tình trạng hôn nhân, xác nhận tình trạng hôn nhân online tpHCM, dịch vụ thám tử, đăng ký lại khai sinh, quy định tạm ngừng kinh doanh, công ty tạm ngưng kinh doanh, mẫu đơn xin trích lục quyết định ly hôn, dịch vụ đăng ký bảo hộ thương hiệu, tạm ngừng kinh doanh, mẫu đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu… hãy liên hệ 0833102102. Hoặc qua các kênh sau:
- Facebook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại. Từ khoản 1 Điều 76 BLDS 2015 quy định về pháp nhân phi thương mại ta có thể khẳng định: tổ chức tôn giáo không chỉ được kinh doanh mà còn thoải mái tiến hành các hoạt động kinh doanh để thu lợi nhuận (ví dụ như mở trường, lớp đào tạo; kinh doanh những đồ vật mang giá trị tôn giáo đại chúng…) miễn là không chạm trần điều cấm của pháp luật thì tổ chức tôn giáo có thể tự do kinh doanh). Chỉ có điều nếu có lợi nhuận phát sinh thì tổ chức tôn giáo không được đem lợi nhuận chia cho các thành viên mà bắt buộc phải sử dụng khoản lợi nhuận đó để duy trì hoạt động của tổ chức. Ví dụ như đầu tư vào những tài sản chung thuộc sở hữu của cộng đồng tôn giáo ( phòng lễ, nhà thờ, v.v.).
Có thể thấy đây là một quy định rất tiến bộ của BLDS 2015 và Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016. Lần đầu tiên tại Việt Nam, tổ chức tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân phi thương mại kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Điều này đã chấm dứt sự tranh cãi bao lâu nay về vấn đề tư cách pháp nhân và hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của tổ chức tôn giáo.
Theo Điều 21 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016: tổ chức đã được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo được công nhận là tổ chức tôn giáo khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
“1. Hoạt động ổn định, liên tục từ đủ 05 năm trở lên kể từ ngày được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo
Có hiến chương theo quy định tại Điều 23 của Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo
Người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự
Có cơ cấu tổ chức theo hiến chương
Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình
Nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.”
Tiếp theo ta cần xác định tổ chức tôn giáo có phải pháp nhân hay không? Từ quy định tại Điều 21 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo trên; rõ ràng tổ chức tôn giáo đáp ứng được đầy đủ các điều kiện để được công nhận là pháp nhân theo khoản 1 Điều 74 BLDS 2015: được thành lập theo quy định của luật; có cơ cấu tổ chức theo Điều 83 BLDS 2015; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Hơn nữa, Điều 30 Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016 đã quy định về tổ chức tôn giáo được công nhận là pháp nhân phi thương mại.
Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 11 Nghị định 162/2017/NĐ-CP, thẩm quyền ra quyết định giải thể đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc được quy định như sau:
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này ra quyết định giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc; bãi bỏ và thu hồi các văn bản sau đây:
Văn bản chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; văn bản thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc của tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức tôn giáo trực thuộc quản lý trực tiếp đối với trường hợp giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc;
Danh sách tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Trường hợp tổ chức tôn giáo trực thuộc giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chậm nhất 05 ngày làm việc kể từ ngày có yêu cầu, tổ chức giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm nộp lại các văn bản và thông báo về việc giải thể tổ chức tôn giáo trực thuộc theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 10 của Nghị định này.