Đất công là loại đất thuộc sở hữu của Nhà nước hoặc các tổ chức công, được quản lý và sử dụng phục vụ cho các mục đích công cộng hoặc lợi ích chung của xã hội. Đất công không thuộc quyền sở hữu riêng của cá nhân hay tổ chức tư nhân mà được quản lý và phân phối theo các quy định của pháp luật và chính sách của Nhà nước. Loại đất này thường được sử dụng để xây dựng các công trình phục vụ cộng đồng như công viên, đường phố, trường học, bệnh viện, và các cơ sở hạ tầng khác. Khi đó, nhiều người băn khoăn không biết liệu căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, Quy định về quản lý đất công như thế nào? Mời quý độc giả cùng tìm hiểu những vấn đề trên qua bài viết sau đây của Luật sư X nhé.
Các loại đất do cơ quan, tổ chức của Nhà nước quản lý
Đất công bao gồm các khu đất do Nhà nước quản lý và có thể được sử dụng cho các mục đích công cộng như xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình công cộng, công viên, trường học, bệnh viện, hoặc các cơ sở sản xuất và dịch vụ công. Loại đất này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo phát triển bền vững và cung cấp các dịch vụ công cộng cho cộng đồng. Việc quản lý và sử dụng đất công cần phải được thực hiện một cách minh bạch và hiệu quả để phục vụ tốt nhất lợi ích chung của xã hội.
Theo khoản 1 Điều 217 Luật Đất đai 2024 quy định đất do cơ quan, tổ chức của Nhà nước quản lý là đất chưa giao, chưa cho thuê hoặc đã được giao đất để quản lý, bao gồm:
– Đất sử dụng vào mục đích công cộng;
– Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối, ao, hồ, đầm, phá;
– Đất nghĩa trang, nhà tang lễ, cơ sở hỏa táng; đất cơ sở lưu giữ tro cốt;
– Đất có mặt nước chuyên dùng;
– Đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất;
– Đất do Nhà nước thu hồi và giao cho tổ chức phát triển quỹ đất quản lý;
– Đất do Nhà nước thu hồi và giao Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý trong các trường hợp tại điểm đ khoản 1 và khoản 3 Điều 82; khoản 2 Điều 82 tại khu vực nông thôn; khoản 5 Điều 86; điểm e khoản 2 Điều 181 Luật Đất đai 2024;
* (Điểm đ khoản 1 và khoản 3 Điều 82 Luật Đất đai 2024):
– Thu hồi đất trong trường hợp đã bị thu hồi rừng theo quy định của pháp luật về lâm nghiệp.
– Các trường hợp thu hồi đất do có nguy cơ đe dọa tính mạng con người hoặc không còn khả năng tiếp tục sử dụng bao gồm:
+ Đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có nguy cơ đe dọa tính mạng con người; đất khác trong khu vực bị ô nhiễm môi trường không còn khả năng tiếp tục sử dụng theo mục đích đã xác định;
+ Đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người; đất khác bị sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác mà không còn khả năng tiếp tục sử dụng.
(Khoản 2 Điều 82 Luật Đất đai 2024): Người sử dụng đất giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất và có đơn tự nguyện trả lại đất.
(Khoản 5 Điều 86 Luật Đất đai 2024): Đất đã thu hồi theo quy định tại Điều 78 và Điều 79 Luật Đất đai 2024 mà chưa giao, chưa cho thuê sử dụng tại khu vực đô thị thì giao cho tổ chức phát triển quỹ đất quản lý, khai thác, sử dụng; tại khu vực nông thôn thì giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý.
* (Điểm e khoản 2 Điều 181 Luật Đất đai 2024): Giao diện tích đất chưa thực hiện theo quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 181 Luật Đất đai 2024 cho Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý.
– Đất giao lại, chuyển quyền sử dụng đất của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao khi không có nhu cầu sử dụng đất thực hiện trên cơ sở điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế và quy định của pháp luật có liên quan;
– Đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn;
– Đất chưa sử dụng.
Quy định về quản lý đất công như thế nào?
Đất công có thể được sử dụng để bảo vệ môi trường, duy trì các khu vực sinh thái, hoặc thực hiện các dự án bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Đất công cũng có thể được chuyển nhượng hoặc cho thuê để phục vụ các dự án phát triển, nhưng thường phải tuân thủ các quy định và quy trình pháp lý nghiêm ngặt. Sử dụng và quản lý đất công phải tuân theo các quy định của pháp luật, các chính sách liên quan đến quản lý đất đai, và các quy định về chuyển nhượng, cho thuê đất công.
Theo quy định tại khoản 2 điều 7 Luật đất đai 2013, UBND cấp xã được sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích công ích; được giao đất phi nông nghiệp để sử dụng vào mục đích xây dựng trụ sở UBND, các công trình công cộng phục vụ hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, vui chơi, giải trí, chợ, nghĩa trang, nghĩa địa và công trình công cộng khác của địa phương.
Theo quy định tại khoản 1 điều 164, khoản 2 điều 8 và khoản 2 điều 141 Luật đất đai 2013.
Theo quy định tại khoản 2 điều 141 luật đất đai.
Theo khoản 2 điều 164 Luật đất đai 2013.
Đất sử dụng vào mục đích công cộng được coi là đất công
Điểm d khoản 2 điều 10 Luật đất đai 2013 quy định:
“e) Đất sử dụng vào mục đích công cộng gồm đất giao thông (gồm cảng hàng không, sân bay, cảng đường thủy nội địa, cảng hàng hải, hệ thống đường sắt, hệ thống đường bộ và công trình giao thông khác); thủy lợi; đất có di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất sinh hoạt cộng đồng, khu vui chơi, giải trí công cộng; đất công trình năng lượng; đất công trình bưu chính, viễn thông; đất chợ; đất bãi thải, xử lý chất thải và đất công trình công cộng khác;”
Đất công ích của xã, phường, thị trấn
Theo quy định tại điều 132 Luật đất đai 2013, quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn do UBND cấp xã nơi có đất quản lý, sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất nông nghiệp của xã.
Điều 76 Luật Đất đai 2013 quy định đối với quỹ đất nông nghiệp công ích của xã, phường thì sẽ được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng như sau:
Các trường hợp về đất rơi vào diện quy hoạch được nhà nước thu hồi thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm:
– Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường hợp đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 54 của Luật Đất đai 2013;
– Đất được Nhà nước giao cho tổ chức thuộc trường hợp có thu tiền sử dụng đất nhưng được miễn tiền sử dụng đất. Theo đó đối với trường hợp đất trong quá trình sử dụng mà rơi vào diện bị thu hồi nhưng đất này lại được Nhà nước miễn tiền sử dụng đất đối với các tổ chức được Nhà nước giao mà không thu tiền sử dụng đất đối với các trường hợp này.
– Đất được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm; đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thuê do thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng. Theo đó đối với các trường hợp mà đất thuộc diện trả tiền thuê đất hàng năm hay trả tiền một lần cho cả thời gian thuê đã được rơi vào điều kiện miễn các khoản tiền thuê đất này thì sẽ không được hỗ trợ bồi thường về đất trừ những trường hợp hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất thuê do đang thực hiện chính sách theo quy định về người có công với cách mạng như quy định của pháp luật.
– Đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn. Như vậy tại điều khoản này cũng đã đề cập đến quỹ đất nông nghiệp thuộc phạm vi đất công ích của xã, phường, thị trấn là không thuộc trường hợp được bồi thường về đất do đất này là đất thuê có thời hạn 05 năm và trả tiền thuê đất nên không rơi vào trường hợp được bồi thường mà chỉ được hỗ trợ chi phí đầu tư vào đất do việc thu hồi trước thời hạn hết hạn thầu.
– Đất nhận khoán để sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối. Đây cũng là một loại quỹ đất mà nhà nước không hỗ trợ bồi thường về đất.
Như vậy, theo quy định pháp luật trường hợp đất mà nằm trong quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn thì không được bồi thường về đất theo điểm d, khoản 1, Điều 76 của Luật Đất đai 2013 mà đối với loại đất này thì sẽ chỉ được bồi thường về chi phí đầu tư vào đất còn lại, chi phí đầu tư vào đất còn lại gồm toàn bộ hoặc một phần của các khoản chi phí bao gồm có chi phí như: chi phí san lấp mặt bằng; cải tạo làm tăng độ màu mỡ của đất, thau chua rửa mặn, chống xói mòn, xâm thực đối với đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp; chi phí gia cố khả năng chịu lực chống rung, sụt lún đất đối với đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh; Chi phí khác có liên quan đã đầu tư vào đất phù hợp với mục đích sử dụng đất đã trúng thầu.
>> Xem ngay: Đất phi nông nghiệp có phải là đất thổ cư không
Ai là người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với đất được giao quản lý?
Trách nhiệm quản lý đất công là một phần quan trọng trong quản lý tài nguyên quốc gia, và các đối tượng chịu trách nhiệm cần phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình để đảm bảo việc sử dụng đất hiệu quả và đúng mục đích, đồng thời bảo vệ quyền lợi của cộng đồng và nhà nước. Vi phạm các quy định về sử dụng đất có thể dẫn đến các hình thức xử lý hành chính hoặc pháp lý.
Theo Điều 7 Luật Đất đai 2024 quy định người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với đất được giao quản lý bao gồm:
– Người đại diện của tổ chức chịu trách nhiệm đối với việc quản lý đất trong các trường hợp sau đây:
+ Tổ chức trong nước được giao quản lý công trình công cộng và hành lang bảo vệ an toàn các công trình theo quy định của pháp luật;
+ Tổ chức trong nước được giao quản lý đất có mặt nước của các sông và đất có mặt nước chuyên dùng;
+ Tổ chức trong nước được giao quản lý quỹ đất đã thu hồi theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
+ Tổ chức kinh tế được giao quản lý diện tích đất để thực hiện dự án đầu tư theo quy định của pháp luật.
– Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi không thành lập đơn vị hành chính cấp xã chịu trách nhiệm đối với việc quản lý đất sử dụng vào mục đích công cộng được giao quản lý, đất chưa giao, đất chưa cho thuê tại địa phương.
– Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm đối với việc quản lý đất chưa sử dụng tại các đảo chưa giao cho đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã quản lý.
– Người đại diện cho cộng đồng dân cư là người chịu trách nhiệm đối với đất được giao cho cộng đồng dân cư quản lý.
Luật Đất đai 2024 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025, trừ các trường hợp sau:
– Điều 190 và Điều 248 Luật Đất đai 2024 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2024.
– Việc lập, phê duyệt quy hoạch sử dụng đất được tiếp tục thực hiện theo quy định của Nghị quyết 61/2022/QH15 về tiếp tục tăng, cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ lập và nâng cao chất lượng quy hoạch thời kỳ 2021 – 2030.
Khoản 9 Điều 60 Luật Đất đai 2024 có hiệu lực thi hành từ ngày Nghị quyết 61/2022/QH15 hết hiệu lực.
Luật Đất đai 2013 hết hiệu lực kể từ ngày 01/01/2025.
Mời bạn xem thêm:
- Thủ tục xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất
- Chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất
- Quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu bị hạn chế khi nào?
Thông tin liên hệ
Trên đây là nội dung liên quan đến vấn đề “Quy định về quản lý đất công như thế nào?”. Nếu quý khách hàng đang có bất kỳ băn khoăn hay thắc mắc đến dịch vụ pháp lý cần được giải đáp, các Luật sư, luật gia chuyên môn sẽ tư vấn, giúp đỡ tận tình, hãy gọi cho chúng tôi qua số hotline 0833.102.102 để được tư vấn nhanh chóng, hiệu quả.
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ Khoản 3 Điều 132 Luật Đất đai 2013 thì đối với diện tích đất chưa sử dụng vào 03 mục đích nêu trên thì Ủy ban nhân dân cấp xã cho hộ gia đình, cá nhân tại địa phương thuê để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản theo hình thức đấu giá để cho thuê. Thời hạn sử dụng đất đối với mỗi lần thuê không quá 05 năm.
Tiền thu được từ việc cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích phải nộp vào ngân sách nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý và chỉ được dùng cho nhu cầu công ích của xã, phường, thị trấn theo quy định của pháp luật.
Như vậy: Ủy ban nhân dân cấp xã có thể cho thuê đối với diện tích đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã chưa được sử dụng vào các mục đích quy định tại Khoản 2 Điều 132 Luật Đất đai 2013 được đề cập nêu trên.
Căn cứ Khoản 3 Điều 59 và Khoản 3 Điều 132 Luật Đất đai 2013 thì Ủy ban nhân dân cấp xã cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn thuộc thẩm quyền quản lý.