Theo quy định hình thức đăng ký giao dịch bảo đảm được xem như là một phương tiện thể hiện ý chí của các chủ thể trong giao dịch xác lập về sự thoả thuận, cam kết của các bên. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm có ý nghĩa lớn trong việc công khai, minh bạch các giao dịch… điều này giúp người dân và doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn đê phát triển kinh doanh, sản xuất hoặc đáp ứng những nhu cầu về tinh thần, vật chất. Vậy hiện nay quy định về hình thức giao dịch bảo đảm có đăng ký như thế nào? Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu tại nội dung bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý
Giao dịch bảo đảm là gì?
Giao dịch bảo đảm là sự thỏa thuận của các bên về việc lựa chọn một trong các biện pháp đã được pháp luật quy định để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự với tính chất tác động dự phòng để ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Quy định về hình thức của giao dịch bảo đảm như thế nào?
Có thể thấy, hình thức của hợp đồng dân sự nói chung và giao dịch bảo đảm nói riêng là phương tiện thể hiện và ghi nhận ý chí của chủ thể xác lập về sự thỏa thuận, cam kết của các bên chủ thể.
Hình thức giao dịch bảo đảm không chỉ thể hiện ý chí, ghi nhận sự cam kết của chủ thể mà còn có chức năng như một chứng cứ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia giao dịch đó trong những trường hợp có tranh chấp xảy ra.
Về mặt bản chất, hợp đồng dân sự hay giao dịch bảo đảm cũng là một giao dịch dân sự, do đó, muốn xác lập và cùng nhau ghi nhận một sự thỏa thuận, các chủ thể nhất thiết phải thông qua một trong hai hình thức: bằng miệng hoặc bằng văn bản.
Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể trong việc xác lập và tham gia các hợp đồng dân sự, pháp luật nước ta quy định các bên có thể giao kết hợp đồng bằng nhiều hình thức khác nhau. Cũng với đó, pháp luật cũng quy định đối với những hợp đồng cần có sự quản lý của nhà nước hoặc cần có chứng cứ xác thực, minh bạch dự phòng cho việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong trường hợp tranh chấp xảy ra thì hợp đồng phải tuân thủ theo một trong những hình thức nhất định, vì vậy, Điều 119 Bộ luật Dân sự 2015 quy định
“Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.”
Như vậy, hình thức của giao dịch bảo đảm được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Cùng với đó, thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
Hình thức giao kết bằng lời nói thường được áp dụng đối với những giao dịch mà giá trị của hợp đồng không lớn hoặc các bên hiểu biết, tin tưởng nhau, là đối tác lâu năm của nhau, những giao dịch mà xác lập và thực hiện kết thúc nhanh chóng (mua bán ngoài chợ) thường gọi là giao kết bằng miệng, các bên khi xác lập hợp đồng trong trường hợp này cũng có thể chọn người làm chứng tuy nhiên pháp luật không bắt buộc điều này.
Đối với trường hợp mà hợp đồng giao kết bằng hành vi cụ thể thì hai bên không có thỏa thuận bằng văn bản cũng như thỏa thuận bằng miệng. Việc giao kết hợp đồng được minh chứng bằng các hành vi như bên bán tiến hành giao hàng hoặc bên mua tiến hành trả tiền.
Với hình thức bằng văn bản, các bên khi tham gia giao dịch sẽ thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của mình sau đó ghi nhận lại bằng văn bản.
Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó (chẳng hạn như các giao dịch liên quan đến bất động sản).
Dưới góc độ là hợp đồng dân sự, các giao dịch bảo đảm có thể xác lập theo một trong những hình thức sau đây:
– Xác lập giao dịch bảo đảm bằng hình thức văn bản
– Xác lập giao dịch bảo đảm bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể (hình thức miệng).
– Xác lập giao dịch bảo đảm theo thủ tục riêng..
Quy định về hình thức giao dịch bảo đảm có đăng ký như thế nào?
Các trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm được quy định tại Nghị định 102/2017/NÐ-CP gồm:
- Thế chấp quyền sử dụng đất
- Thế chấp tài sản gắn liền với đất trong trường hợp tài sản đó đã được chứng nhận quyền sở hữu trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
- Cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay
- Thế chấp tàu biển
Giao dịch bảo đảm là sự thỏa thuận của các bên về việc lựa chọn một trong các biện pháp đã được pháp luật quy định để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Với tính chất tác động dự phòng để ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có quyền sẽ được xử lý để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ.
Một giao dịch bảo đảm được coi là vô hiệu khi nào?
– Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.
+ Vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
+ Điều 130. Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần
Khi giao dịch bảo đảm vô hiệu sẽ phát sinh hậu quả pháp lý như thế nào?
Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.”
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Phân biệt cầm đồ và cầm cố tài sản
- Thế chấp tài sản chấm dứt khi nào?
- Cung cấp thông tin biện pháp bảo đảm theo quy định?
- Chấm dứt biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Thông tin liên hệ:
Trên đây là nội dung bài viết liên quan đến vấn đề “Quy định về hình thức giao dịch bảo đảm có đăng ký như thế nào?“. Hy vọng bài viết có ích cho độc giả, Luật sư X với đội ngũ luật sư, luật gia và chuyên viên pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ cung cấp dịch vụ pháp lý như dịch vụ tư vấn về thủ tục tạm ngừng kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe mọi thắc mắc của quý khách hàng. Thông tin chi tiết quý khách hàng vui lòng liên hệ qua số hotline: 0833102102
Câu hỏi thường gặp
Điều 292 Bộ luật dân sự 2015 quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm:
1. Cầm cố tài sản.
2. Thế chấp tài sản.
3. Đặt cọc.
4. Ký cược.
5. Ký quỹ.
6. Bảo lưu quyền sở hữu.
7. Bảo lãnh.
8. Tín chấp.
9. Cầm giữ tài sản.
Đăng ký biện pháp bảo đảm là một trong những cách thức để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên nhận bảo đảm. Biện pháp bảo đảm được đăng ký mang ý nghĩa công bố quyền lợi của bên nhận bảo đảm khi này việc xác lập giao dịch liên quan đến tài sản bảo đảm đều buộc phải biết về sự hiện hữu của các quyền liên quan đến tài sản bảo đảm đã được đăng ký.
Ngoài quyền truy đòi tài sản, việc đăng ký biện pháp bảo đảm còn giúp cho bên nhận bảo đảm có được thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm so với các chủ nợ khác.
Thông qua cơ chế đăng ký biện pháp bảo đảm, bên bảo đảm vừa đạt được mục đích dùng tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, vừa duy trì được hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình. Chính nguồn lợi thu được từ việc khai thác tài sản bảo đảm sẽ giúp bên bảo đảm có thể thanh toán được nợ cho bên nhận bảo đảm.