Hiện nay, Luật so sánh không còn quá là mới lạ đối với các chương trình đào tạo ngành Luật ở Việt Nam. Luật so sánh đã xuất hiện từ trước thế kỉ 19 trên Thế giới. Luật so sánh là ngành khoa học cần được nghiên cứu, đặc biệt đối với những người hành nghề pháp luật. Các nhà làm luật tham khảo pháp luật các nước khác để xây dựng luật quốc gia; Các Thẩm phán công nhận những phán quyết của Tòa án, Trọng tài nước ngoài thì cần biết pháp luật nước đó để xem xét sự xung đột ra sao. Với tầm quan trọng như vậy, để hiểu biết sâu hơn về quá trình hình thành và phát triển Luật so sánh ở Việt Nam. Hãy tham khảo bài viết dưới đây của Luật sư X để biết thêm thông tin nhé!
Hiểu như thế nào về Luật so sánh?
Luật so sánh là một ngành khoa học. Xung quanh định nghĩa về Luật so sánh dưới góc độ là một môn khoa học thì cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
Theo Zweigert và Kortz, Luật so sánh là hoạt động trí tuệ mà pháp luật là đối tượng và so sánh là quá trình hoạt động.
Theo Peter de Cruz, Luật so sánh nghiên cứu có hệ thống các truyền thống pháp luật và quy phạm pháp luật dựa trên cơ sở so sánh. Vậy, Luật so sánh có đối tượng nghiên cứu là pháp luật nước ngoài và phương pháp nghiên cứu chủ yếu là so sánh.
Theo quan điểm của PGS.TS Ngô Huy Cương: “Luật so sánh là một môn khoa học pháp lý sử dụng tổng quát các phương pháp so sánh làm trọng yếu để nghiên cứu các vấn đề pháp luật thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau, nghiên cứu hệ thống pháp luật các nước một cách riêng biệt và nghiên cứu việc sử dụng, cũng như hiệu quả của phương pháp so sánh pháp luật”.
Qua đó có thể thấy đối tượng nghiên cứu là pháp luật nước ngoài và bản thân phương pháp so sánh pháp luật.
Như vậy, Luật so sánh hay Luật học so sánh là một môn khoa học, một phương pháp tiếp cận nghiên cứu so sánh các hệ thống pháp luật khác nhau nhằm tìm ra sự tương đồng và khác biệt, giải thích nguồn gốc, đánh giá cách giải quyết trong các hệ thống pháp luật.
Luật học so sánh còn là lý luận, hay là môn khoa học trong các ngành khoa học pháp lý nhằm nghiên cứu và so sánh các văn bản pháp luật và hệ thống pháp luật khác nhau với nhau và với các quy phạm của luật quốc tế để làm sáng rõ sự giống nhau và khác nhau, xác định khuynh hướng phát triển chung của pháp luật.
Đối tượng của Luật so sánh:
- Pháp luật nước ngoài: Do mỗi nước, mỗi khu vực có nền tảng kinh tế – xã hội – lịch sử rất khác nhau dẫn đến mỗi hệ thống pháp luật ở các nước đều có sự khác biệt lớn. Pháp luật nước ngoài là đối tượng nghiên cứu quan trọng của luật so sánh, nhằm rút ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật các nước.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp chủ yếu được dùng để nghiên cứu luật so sánh, có nhiều mức độ so sánh để rút ra các giải pháp cho luật thực định.
Chức năng và mục đích của Luật so sánh
Chức năng của Luật so sánh:
- So sánh các hệ thống pháp luật trên thế giới nhằm tìm ra điểm tương đồng và khác biệt;
- Đánh giá, so sánh các giải pháp của luật pháp các nước;
- Phân nhóm pháp luật;
- Nghiên cứu sự hiệu quả của phương pháp so sánh trong nghiên cứu luật so sánh.
Mục đích của Luật so sánh:
- Nâng cao hiểu biết về các hệ thống pháp luật trên thế giới;
- Hỗ trợ cải cách pháp luật quốc gia;
- Tìm ra các giải pháp cho luật thực định;
- Hỗ trợ việc thực hiện và áp dụng pháp luật.
Luật so sánh có ý nghĩa lớn đối với Việt Nam hiện nay. Trình độ lập pháp của Việt Nam còn yếu kém, pháp điển hoá pháp luật không tốt, nhiều điều luật chồng chéo nhau hoặc không cần thiết, rất cần nghiên cứu tư duy pháp lý, kỹ thuật lập pháp các nước bổ sung cho pháp luật hiện hành. Hơn nữa trong thời hội nhập nếu không hiểu biết pháp luật quốc tế thì rất dễ bị thua thiệt, nên việc học luật so sánh lại càng cần thiết.
Quá trình hình thành và phát triển Luật so sánh ở Việt Nam
Trước 1986, Luật so sánh ở Việt Nam hầu hết là luật so sánh lập pháp.
Thời kì phong kiến, các nhà làm luật Việt hầu hết học hỏi từ pháp luật Trung Quốc cả về tư tưởng, hình thức, nội dung.
Sau Cách mạng tháng 8, pháp luật hầu hết được xây dựng từ các nước XHCN, ví dụ như Hiến pháp 1959 đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo về việc tham khảo Hiến pháp các nước bạn, nên nó được coi như sản phẩm của so sánh pháp luật.
Từ 1954 – 1975, các nhà làm luật miền Nam đã tham khảo pháp luật nước ngoài để xây dựng luật, ví dụ luật tư như Hôn nhân gia đình, thương mại, dân sự,…
Luật so sánh học thuật có 1 số nghiên cứu, các tác giả như Ngô Bá Thành, Vũ Văn Mẫu,…
Sau 1975, hoạt động xây dựng pháp luật phát triển, vẫn tiếp tục học tập các nước XHCN (đặc biệt là Liên Xô).
Từ 1986 đến nay: Luật so sánh phát triển cả hai lĩnh vực lập pháp và học thuật:
- Luật so sánh lập pháp: Học hỏi các nước đã phát triển nền kinh tế thị trường;
- Luật so sánh học thuật: Xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu hơn; các tổ chức chuyên về luật so sánh cũng được thành lập.
Sự khác nhau giữa các hình thức so sánh trong Luật so sánh
Dựa vào đặc điểm, chức năng, hình thức và lịch sử. Luật so sánh phân loại các hình thức so sánh như sau:
So sánh vĩ mô và so sánh vi mô:
So sánh vĩ mô là so sánh các hệ thống pháp luật về tinh thần, phong cách, phương pháp tư duy pháp lý, thủ tục. Cụ thể, phương pháp xử lý các tư liệu pháp lý, thủ tục giải quyết các tranh chấp như kỹ thuật lập pháp, kiểu pháp điển hóa, giải thích pháp luật, xem xét tiền lệ, việc đóng góp của nhà trường vào việc phát triển pháp luật, quan điểm tư pháp, các thức khác nhau trong việc giải quyết xung đột, vai trò của luật sư và thẩm phán trong việc chứng minh sự kiện và thiết lập pháp luật.
So sánh vi mô là so sánh các vấn đề pháp lý cụ thể và giải pháp giải quyết chúng.
Hai mức độ so sánh này không có ranh giới rõ ràng, thực tế khi so sánh người ta phải thực hiện đồng thời cả hai mức độ nghiên cứu; bản thân hai mức độ này cũng được xem là phương pháp quan trọng của Luật so sánh.
So sánh hình thức và so sánh chức năng:
Phương pháp so sánh chức năng là so sánh dựa vào những chức năng nhất định nào đó.
Phương pháp so sánh hình thức là so sánh các quy phạm pháp luật với nhau.
So sánh với lịch sử nhà nước và pháp luật:
Đối tượng nghiên cứu của lịch sử nhà nước và pháp luật là quá trình phát sinh, phát triển và thay thế các kiểu hình thức nhà nước và pháp luật trong từng thời kì, diễn ra tại các khu vực điển hình trên thế giới.
Phạm vi lịch sử nhà nước và pháp luật gồm hai phần đó là lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới và Việt nam
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu cụ thể (phân tích, tổng hợp, thống kê,…..) phương pháp học tập, nghiên cứu hiệu quả (Quan sát, tìm hiểu, Hỏi, Đọc và Trả bài, Xem lại)
Mối liên hệ với luật so sánh là kiến thức nền tảng để các nhà nghiên cứu so sánh lịch sử nhà nước và pháp luật của các quốc gia trên thế giới với nhau.
Có thể bạn quan tâm
- Quy định pháp luật người khuyết tật 2022 mới nhất
- Quy định về luật an toàn thực phẩm số 55/2010/qh12
- Chấm dứt hợp đồng trái pháp luật là gì?
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn về “Quá trình hình thành và phát triển Luật so sánh ở Việt Nam”. Mong rằng các kiến thức trên có thể giúp ích cho bạn trong cuộc sồng hằng ngày. Hãy theo dõi chúng tôi để biết thêm nhiều kiến thức bổ ích. Và nếu quý khách đang cần thuê thám tử điều tra, theo dõi, thu thập thông tin an toàn, chuyên nghiệp và muốn tìm kiếm một dịch vụ thám tử tận tâm, dịch vụ thám tử theo dõi chồng ngoại tình, mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận và giải đáp.
Liên hệ hotline: 0833102102.
Hoặc bạn có thể tham khảo thêm các kênh sau:
- FB: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Trước thế kỉ 19
Ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà nước đã viện dẫn pháp luật nước ngoài để xây dựng hệ thống pháp luật của mình, điển hình là Hy Lạp và La Mã.
Hy Lạp: Nhiều thành phố đã chấp nhận toàn bộ hoặc một phần luật lệ của các thành ban khác; Ngoài ra, cũng có các nghiên cứ so sánh như Aristotle đã nghiên cứu so sánh 153 tổ chức của người Hi Lạp và các bang; Plota đã so sánh luật lệ các bang với nhau.
La Mã: Khi mới được hình thành, luật lệ của La Mã được xây dựng trên cơ sở tìm hiểu luật lệ của Hy Lạp; Qua các thời kì hưng thịnh của đế chế La mã, Trung cổ, luật so sánh đều không phát triển.
Đến thế kỷ 16
Ở một số quốc gia châu Âu lục địa mới xuất hiện 1 số công trình nghiên cứu như so sánh giữa luật La Mã với luật của người Giécmanh.
Thế kỷ 17 – 19
Thế kỷ 17-18 hầu như không phát triển. Có nổi bật là Montesquieu sử dụng phương pháp so sánh rất nhiều trong “Tinh thần pháp luật” và “Những bức thư Ba Tư”, sau này được coi là ng đi tiên phong trong lĩnh vực luật so sánh.
Với việc so sánh luật tập quán ở Châu Âu đã hình thành nên thường luật tập quán (Droit Commun Coutumier) ở Pháp.
Từ thế kỷ 19 đến nay
Luật so sánh phát triển mạnh mẽ với hai hình thức:
Luật so sánh lập pháp: Pháp luật của nước ngoài được viện dẫn để soạn thảo các văn bản pháp luật quốc gia;
Luật so sánh học thuật: So sánh các hệ thống pháp luật khác nhau để nâng cao hiểu biết về pháp luật.
Luật so sánh lập pháp phát triển sớm hơn luật so sánh học thuật. Đến giữa thế kỷ 19 luật so sánh mới dường như được thừa nhập như ngành nghiên cứu pháp luật.
Cuối Thế kỷ 19, luật so sánh có sự phát triển được đánh dấu bằng các thiết chế như hiệp hội, các tạp chí, trưởng các chuyên ngành so sánh.
Mục tiêu khoa học:
Cung cấp tri thức pháp luật: Có cái nhìn toàn diện về các dòng họ pháp luật trên thế giới; phân nhóm các hệ thống pháp luật; cung cấp kiến thức cụ thể về hệ thống pháp luật nước ngoài;
Hiểu hơn về pháp luật nước mình, bổ sung nâng cao kiến thức sẵn có, đưa ra hướng tiếp cận pháp luật mới;
Cung cấp tri thức nhiều lĩnh vực khác để tiến hành so sánh, đánh giá cần tìm hiểu nhiều lĩnh vực khác như lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, kinh tế, chính trị,… (những nguyên nhân dẫn tới sự giống và khác).
Mục tiêu cải cách pháp luật quốc gia:
Để có thể áp dụng những sáng tạo vào luật thì các nhà làm luật phải dự báo được khả năng tác động của đạo luật ấy tới đời sống xã hội trước khi thử nghiệm. So sánh những sáng tạo này ở các quốc gia khác là một phương pháp dự báo hiệu quả. Hoặc vay mượn các giải pháp pháp luật sẽ hữu ích hơn việc trải qua những thử nghiệm.
Việc học hỏi được thể hiện qua 2 hình thức: Dựa vào khái niệm và giải pháp của nước ngoài để xây dựng giải pháp phù hợp với hoàn cảnh của quốc gia; Cấy ghép: Tiếp nhận các khái niệm và giải pháp của nước ngoài.
Luật so sánh mở rộng nguồn các giải pháp pháp luật về vấn đề cụ thể mà pháp luật của các nước đã và đang phải đối mặt.
Tăng khả năng thành công của việc cải cách hệ thống pháp luật thế giới.