Chào Luật sư, tôi có cho hàng xóm vay một số tiền đề làm ăn nhưng hiện tại tôi đòi lại tiền thì người kia không trả và nói rằng không có vay? Luật sư cho tôi hỏi Nợ tiền không trả phạm tội gì theo quy định của pháp luật? Tôi xin chân thành cảm ơn luật sư rất nhiều vì đã trả lời câu hỏi của tôi.
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Để có thể cung cấp cho bạn thông tin về Nợ tiền không trả phạm tội gì theo quy định của pháp luật? Luật sư X mời bạn tham khảo bài viết dưới đây của chúng tôi.
Căn cứ pháp lý
Nợ tiền không trả phạm tội gì theo quy định của pháp luật?
Mức xử lý hành vi dưới góc độ hình sự
Hành vi của sinh viên đó có dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015. Cụ thể:
“Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;…”
Như vậy, nếu đưa đơn ra tòa, bị cáo sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Xử lý khi người vay không có khả năng trả nợ
Khi bạn cho người sinh viên đó vay tiền và có giấy nợ cũng như bản photo chứng minh thư để đảm bảo, giữa hai người đã giao kết hợp đồng vay tài sản. Vì vậy căn cứ theo Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 về nghĩa vụ trả nợ của bên vay:
“Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý…”
Bạn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khởi tố hành vi của người vay tiền khi có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ thì căn cứ theo Điều 351 Bộ luật dân sư 2015 về vi phạm nghĩa vụ dân sự :
“Điều 351. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
1. Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ.
2. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
3. Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.”
Trong trường hợp này nếu bên vay không có bất kỳ một tài sản nào để có thể thanh toán khoản nợ vay cũng như chứng minh được bên vay không hề phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì bên cho vay sẽ phải hoàn toàn chịu rủi ro.
Vay tiền rồi bỏ trốn có phạm tội hay không ?
Theo quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về Hợp đồng vay tài sản như sau:
Điều 463. Hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Như vậy gia đình bạn cho bà A vay số tiền 100 triệu nhưng nay bà A không trả và bỏ trốn khỏi địa phương. Hành vi của bà A có dấu hiêu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Như vậy bà A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017 với khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù.
Vì thế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bạn cần phải làm đơn tố cáo tới cơ quan điều tra và xử lí về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nêu trên.
Theo quy định tại Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự thì công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.
Như vậy, bạn có thể gửi đơn tố cáo hành vi của bà A đến các cơ quan nêu trên, kèm theo các tài liệu, chứng cứ có liên quan để đề nghị khởi tố vụ án nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Trách nhiệm hình sự khi vay tiền không có khả năng trả?
1. Về cho vay nặng lãi.
Điều 201 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội cho vay lãi nặng như sau:
“Điều 201. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Theo quy định của Điều luật trên, việc cho vay nặng lãi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau đây:
Thứ nhất: Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về lãi suất.
Như vậy, pháp luật chỉ thừa nhận đối với phần lãi suất không vượt quá 20%/năm. Bên cạnh đó, để xem xét hành vi cho vay tiền có lãi có phải là hành vi cho vay nặng lãi hay không thì cần xem xét lãi suất cho vay là bao nhiêu. Nếu lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ 05 lần trở lên, đồng thời có tính chất chuyên bóc lột thì xác định hành vi đó cấu thành Tội cho vay nặng lãi.
Hiện nay, lãi suất theo pháp luật quy định là 20%/năm, tức là không được vượt quá 1,66%/ tháng.
Thứ hai: Có tính chất chuyên bóc lột được hiểu là người phạm tội lợi dụng việc cho vay, lợi dụng hoàn cảnh khó khăn cấp bách của người đi vay để cho vay với lãi suất cao (lãi nặng) nhằm thu lợi bất chính mà thực chất là bóc lột người đi vay. Tính chất chuyên bóc lột của hành vi cho vay lãi nặng thể hiện ở chỗ: người phạm tội thực hiện hành vi cho vay lãi nặng nhiều lần, hành vi mang tính chuyên nghiệp, người phạm tội lấy việc cho vay lãi nặng làm một nghề kiếm sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
Theo như thông tin bạn đưa ra, thì cô A là người cho vay nặng lãi. Việc cơ quan công an đưa ra các quyết định thì luôn có căn cứ của nó, nên công an đưa ra quyết định gia đình bạn không phải trả thêm nữa là đúng.
2. Về xác định đồng phạm:
đồng phạm được quy định tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự:
“1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
2.Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
3. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.”
Trường hợp trên cô B có thể được xem là đồng phạm, là người giúp sức tạo điều kiện cho cô A kia thực hiện tội phạm. Đồng phạm thì bị xử phạt độc lập như người phạm tội.
3. Về quy định mức hình phạt
Trong trường hợp này, mẹ bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
g) Tái phạm nguy hiểm.
Có thể kiện người vay khi không có giấy tờ vay được không ?
TTheo quy định của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 như sau:
” Điều 174. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
g) Tái phạm nguy hiểm.
Bạn có thể viết đơn khởi kiện lên tòa án nhân dân cấp quận, huyện nơi người bạn đó cư trú đính kèm giấy tờ vay tiền cùng với hóa đơn khống mà bạn mua cho anh ta làm bằng chứng khởi kiện.
Vay tiền trả góp không còn khả năng trả phải chịu trách nhiệm gì ?
Thứ nhất: Trường hợp bạn vay tiền với bên ngân hàng nếu là vay thế chấp thì khi bạn không có khả năng trả nợ thì tài sản thế chấp mà bạn đã dùng để thế chấp sẽ bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ nợ. Trường hợp này thì phía ngân hàng có thể khởi kiện theo pháp luật dân sự là kiện đòi tài sản để tiếp theo là cơ quan thi hành án sẽ kê biên tài sản mà bạn đã thế chấp phụ vụ cho nghĩa vụ trả nợ của bạn, theo Bộ luật dân sự năm 2015 quy đinh:
“Điều 280. Thực hiện nghĩa vụ trả tiền
1. Nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức đã thỏa thuận.
2. Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Thứ hai: Nếu trường hợp bạn vay tín chấp, tức là không thế chấp tài sản với bên ngân hàng. Nếu bạn không có khả năng trả nợ thì ngân hàng cũng có thể kiện đòi tài sản theo pháp luật dân sự. Nhưng rất có thể căn cứ vào hành vi của bạn từ việc vay tiền, mục đích sử dụng tiền cũng như quá trình thanh toán nghĩa vụ nợ hàng tháng như thế nào. Và từ hành vi bạn bỏ trốn khỏi địa phương để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ nữa thì rất có thể bạn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175, Bộ luật hình sự năm 2015 . Tất nhiên nếu điều này sảy ra thì phải được phía ngân hàng khởi kiện bạn, và khi đã khởi kiện mà bạn còn tiếp tục bỏ rốn thì hẳn là một bất lợi nữa cho mình khi ra tòa.
Từ căn cứ pháp lý nêu trên có thể thấy với trường hợp của bạn có thể phải chịu hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Đồng thời bạn phải thực hiện nghĩa vụ nợ còn thiếu cả gốc cả lãi theo yêu cầu của phía ngân hàng bởi phán quyết của Tòa.
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật Sư X về vấn đề Nợ tiền không trả phạm tội gì theo quy định của pháp luật? Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu; về các vấn đề liên quan đến Đăng ký bảo vệ thương hiệu; giấy chứng nhận độc thân; xác nhận tình trạng hôn nhân Hồ Chí Minh, Đổi tên giấy khai sinh Hồ Chí Minh, Đổi tên căn cước công dân Trích lục hồ sơ địa chính; Ngừng kinh doanh; thành lập công ty ở Việt Nam; mẫu đơn xin giải thể công ty; Cấp phép bay flycam; xác nhận độc thân, đăng ký nhãn hiệu,Trích lục ghi chú ly hôn, Thủ tục cấp hộ chiếu tại Việt Nam… của Luật sư X. Hãy liên hệ hotline: 0833.102.102.
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: youtube.com/Luatsux
Mời bạn xem thêm
- Án treo có được đi làm không?
- Án treo là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù phải không?
- Cải tạo không giam giữ có được đi làm không?
Câu hỏi thường gặp
Dù đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi cố tình không trả nợ, người phạm tội vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường dân sự.
Cụ thể, tại Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, bên vay có nghĩa vụ:
Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.
Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Như vậy, không chỉ phải trả số nợ đã vay theo thỏa thuận, nếu quá hạn trả nợ, bên đi vay còn có thể phải trả lãi trên nợ gốc.
Tùy thuộc vào tính chất và giá trị khoản vay mà việc thiếu nợ hay trốn tránh trách nhiệm trả nợ khi đến hạn có đủ yếu tố cấu thành có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 hoặc tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015.
Hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 của Bộ luật này có thể hiểu là việc người nào đó vay, mượn, thuê tài sản của người khác thông qua các hình thức hợp đồng sau đó:
Dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời hạn trả nợ có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả.
Đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Thực hiện những hành vi trên có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp; lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan tổ chức; dùng thủ đoạn xảo quyệt; gây ảnh hưởng xấu tới an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Mức hình phạt tương ứng với trị giá của khoản vay:
Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với khoản vay:
Trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.
Dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng cho những trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết sau:
Có tổ chức;
Có tính chất chuyên nghiệp;
Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
Tái phạm nguy hiểm.
Phạt từ 05 năm đến 12 năm nếu chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm nếu chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Theo như quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, một người bị coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu người đó có thủ đoạn gian dối và nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác. Như bạn trình bày, bạn vay tiền của công ty PPF, đã trả được một thời gian nhưng sau đó không có khả năng đóng tiếp. Trước khi vay công ty PPF bạn không hề có ý định sẽ chiếm đoạt số tiền vay (biểu hiện là bạn đã cố gắng trả 10 kỳ và vì khó khăn nên mới không tiếp tục trả được) và cũng không có thủ đoạn gian dối gì để lừa công ty PPF cho bạn vay tiền cả. Do đó, bạn không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.