Chào Luật sư! Hiện tại chồng tôi đang bị tạm giam tại đồn công an vì tội buôn bán ma túy. Tuy nhiên, trên thực tế; dựa vào lời khai thì chồng tôi chỉ là người vận chuyển giúp cho người chủ mưu trong hoạt động mua bán này. Vậy xin hỏi Luật sư, trong trường hợp này, trách nhiệm hình sự đối với người đồng phạm là chồng tôi được xác định như thế nào? Pháp luật có quy định gì về nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm hay không? Mong Luật sư tư vấn giúp tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Sau đây, Luật sư X xin giải đáp thắc mắc của bạn như sau
Căn cứ pháp lý
Nội dung tư vấn
Khái niệm
Theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015
- Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
- Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
- Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
- Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.
Các vấn đề liên quan đến xác định đồng phạm
Vấn đề chủ thể đặc biệt trong đồng phạm
- Đối với những tội phạm có chủ thể đặc biệt; luật hình sự chỉ đòi hỏi người thực hành có đặc điểm của chủ thể đó.
- Những người đồng phạm khác không nhất thiết phải có những đặc điểm của chủ thể đặc biệt
- Ví dụ: trong vụ tham ô tài sản, người thực hành là người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến tài sản; còn những người đồng phạm khác có thể là người không có chức vụ, quyền hạn như vậy.
Vấn đề xác định giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm
- Nếu những người đồng phạm không thực hiện tội phạm được đến cùng; do những nguyên nhân khách quan; thì người thực hành thực hiện tội phạm đến giai đoạn nào; họ phải chịu trách nhiệm hình sự đến đó.
- Nếu người bị xúi giục không nghe theo; sự xúi giục không có kết quả thì chỉ riêng người xúi giục phải gánh chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà họ muốn xúi giục.
- Nếu người giúp sức người khác thực hiện tội phạm; nhưng người này không thực hiện tội phạm đó; hoặc không sử dụng sự giúp sức thì người giúp sức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ muốn giúp sức
Vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm
- Trong vụ đồng phạm, khi có sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của một người; hay một số người thì việc miễn trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng đối với người đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
- Đối với những người thực hành; vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội cũng như trường hợp phạm tội riêng lẻ. Khi người thực hành tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì chỉ riêng họ được miễn trách nhiệm hình sự.
- Đối với người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức; việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải được thực hiện trước khi người thực hành thực hiện tội phạm; và phải có hành động tích cực làm mất tác dụng của những hành vi trước đó của mình; ngăn chặn việc thực hiện tội phạm,…
Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm
- Trong đồng phạm, tội phạm được thực hiện là do sự nỗ lực hợp sức chung của tất cả những người cùng tham gia. Hành vi của mỗi người là bộ phận cần thiết trong hoạt động chung đó.
- Hậu quả thiệt hại của tội phạm là kết quả hoạt động chung của tất cả những người cùng thực hiện gây ra. Hơn nữa, bản thân tội phạm cũng là thể thống nhất.
- Do đó, không thể chia cắt tội phạm để buộc mỗi người đồng phạm phải chịu trách nhiệm về một phần của tội phạm.
Theo nguyên tắc này, Luật Hình sự Việt Nam xác định
- Tất cả những người đồng phạm đều bị truy tố; xét xử về cùng tội danh, theo cùng điều luật và trong phạm vi chế tài điều luật ấy quy định
- Các nguyên tắc chung về việc truy cứu trách nhiệm hình sự; về quyết định hình phạt; về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm; mà những người này đã thực hiện được áp dụng chung cho tất cả
Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập về việc cùng thực hiện vụ đồng phạm
- Trong vụ đồng phạm, mỗi người đồng phạm tuy phải chịu trách nhiệm chung về tội phạm mà họ cùng thực hiện; nhưng do trách nhiệm hình sự là trách nhiệm cá nhân nên việc xác định trách nhiệm hình sự cho từng người đồng phạm vẫn dựa trên hành vi cụ thể của mỗi người
Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ
- Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người đồng phạm khác. Trong đó, hành vi vượt quá này được hiểu là hành vi vượt ra ngoài ý định chung của những người đồng phạm; và hành vi này có thể cấu thành tội phạm khác hoặc thỏa mãn dấu hiệu khung hình phạt tăng nặng.
- Việc miễn trách nhiệm hình sự; hoặc miễn hình phạt đối với người đồng phạm này không loại trừ trách nhiệm của những người còn lại
- Hành vi của người tổ chức, xúi giục hay giúp sức; dù chưa đưa đến việc thực hiện tội phạm vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự
- Hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người đồng phạm này không loại trừ trách nhiệm hình sự của những người khác
Nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
- Trong vụ đồng phạm, những người tham gia tuy phạm cùng một tội; nhưng tính chất và mức độ của họ không giống nhau; hành vi tham gia của mỗi người có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội riêng. Do vậy, trách nhiệm của mỗi người phải được xác định khác nhau
- Bộ luật Hình sự nước ta xác định chính sách hình phạt Nhà nước là: “Nghiêm trị và kết hợp với khoan hồng”. Nghiêm trị với người chủ mưu, cầm đầu; chỉ huy, ngoan cố,…Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú; thành khẩn khai báo,…
- Chính sách này được thể hiện rõ trong đường lối xét xử các vụ đồng phạm về tội xâm phạm an ninh quốc gia. Bởi vì trong các vụ án này; bên cạnh người cầm đầu, chủ mưu; hoạt động đắc lực còn có khá đông phạm tội do bị lừa phỉnh, ép buộc,..
- Chính sách nghiêm trị kết hợp với khoan hồng cũng được thể hiện rõ trong các tội phạm khác; nếu trong các vụ đồng phạm này có sự phân hóa rõ rệt hai loại người – một bên là người cầm đầu và một bên là những người nhất thời phạm tội
Giải quyết vấn đề
Như vậy, việc nắm bắt được nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc áp dụng biện pháp chế tài; đồng thời, đây là nguồn căn cứ hữu ích để người phạm tội có thể nhận biết được hành vi của mình có được miễn giảm hay loại trừ trách nhiệm hình sự hay không,…Ở một khía cạnh nhất định; thông qua quy định của pháp luật về những nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm; góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của những chủ thể liên quan,….
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề “Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm?”. Hy vọng bài viết hữu ích với bạn đọc. Nếu có vấn đề pháp lý cần giải quyết, vui lòng liên hệ Luật sư X: 0833102102
Có thể bạn quan tâm
- Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm theo quy định?
- Tội tham nhũng bị xử lý như thế nào theo quy định của pháp luật?
- Đồng phạm là gì?
Câu hỏi thường gặp
Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017, thì cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Theo quy định tại Điều 16 Bộ luật Hình sự năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017, thì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017, Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;