Xin chào Luật sư X, tôi và chồng kết hôn được 05 năm và có với nhau 2 người con, 1 đứa 4 tuổi và 1 đứa 3 tuổi. Tuy nhiên, vì tính chất công việc chồng tôi hay đi công tác xa có khi đi hẳn 03 tháng hoặc nửa năm mới về. Cảm thấy hôn nhân không hạnh phúc nên tôi đang có suy nghĩ muốn ly hôn với chồng. Nhưng tôi lo lắm, nghe nói người viết đơn ly hôn sẽ không được quyền nuôi con. Vậy theo quy định hiện nay người viết đơn ly hôn có được nuôi con không? Xin được tư vấn.
Chào bạn, cảm ơn vì câu hỏi của bạn và để giải đáp thắc mắc hãy cùng Luật sư X tìm hiểu qua bài viết “Năm 2022, người viết đơn ly hôn có được nuôi con không?” sau nhé.
Căn cứ pháp lý
Khái quát về quyền nuôi con sau khi ly hôn theo quy định hiện nay
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thì Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định cụ thể về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn tại Điều 81, theo đó:
- Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
- Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con. Trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
- Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi. Trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Căn cứ vào điều luật này chúng ta có thể nhận thấy pháp luật tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của hai vợ chồng.
Như vậy khi tiến hành ly hôn thì hai vợ chồng cần tiến hành thỏa thuận quyền nuôi con. Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp trong trường hợp hai bên không thể thương lượng, thỏa thuận được cũng như Tòa án dựa vào Luật Hôn nhân và gia đình, quy định các nguyên tắc để giải quyết tranh chấp về quyền nuôi con sau khi ly hôn.
Người viết đơn ly hôn có được nuôi con không?
Pháp luật không quy định cụ thể bố hay mẹ là người được quyền trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, thông thường Tòa án căn cứ theo yêu cầu của hai bên, căn cứ theo quy định pháp luật để phán quyết người được nuôi con khi giải quyết ly hôn. Nên:
Trường hợp vợ chồng thỏa thuận người trực tiếp nuôi con khi ly hôn thì Tòa án chấp thuận yêu cầu trên nếu việc này không trái pháp luật.
Trường hợp cả hai đều muốn giành quyền nuôi con thì Tòa án sẽ:
Căn cứ quy định pháp định để xác định ai là người được trực tiếp nuôi con. Ví dụ: Mẹ được quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi ly hôn.
Căn cứ theo điều kiện sinh hoạt hiện tại của con, điều kiện chăm sóc cho con của bố mẹ, quá trình nuôi dưỡng con của bố mẹ trước khi lên Tòa xin ly hôn, để từ đó quyết định giao ai là người trực tiếp nuôi con. Phán quyết của Tòa án thường mang tính chủ quan, nhưng theo hướng tốt cho điều kiện phát triển của con.
Đối với con trên 07 tuổi thì việc quyết định bố hay mẹ là người nuôi con khi ly hôn còn được căn cứ theo nguyện vọng của con.
Như Luật sư X đã trình bày, pháp luật hiện hành không quy định trường hợp người viết đơn ly hôn sẽ không được quyền ly hôn.
Tòa án căn cứ vào tiêu chí nào để phân định quyền trực tiếp nuôi con?
Thông thường việc tranh chấp quyền nuôi con diễn ra chủ yếu trong thủ tục ly hôn đơn phương. Các yếu tố Tòa án căn cứ để quyết định quyền nuôi con từ 36 tháng – 7 tuổi nếu vợ chông không thỏa thuận được với nhau như sau:
- Thu nhập hàng tháng: Bạn cần chứng minh được thu nhập hàng tháng của bạn có thể đáp ứng được nhu cầu tài chính cho con phát triển khôn lớn.
- Chỗ ở ổn định: Nếu bạn có chỗ ở ổn định cho con hơn đối phương thì đây là một lợi thế.
- Môi trường sống: Bạn sẽ có lợi hơn nếu chứng minh được môi trường sống khi con ở cùng bạn sẽ tốt hơn đối phương. Bạn cần chỉ ra môi trường ở đó tốt như thế nào, bạn có thể dành cho con những tiện nghi như thế nào, việc học hành và di chuyển của con đảm bảo ra sao?
- Thời gian làm việc: Nếu bạn có nhiều thời gian và sự chăm sóc cho con nhiều hơn đối phương thì đây là ưu điểm tốt để Tòa xem xét.
- Hành vi của bạn: Yếu tố này quan trọng nhất khi Tòa xem xét việc nuôi con, nếu hành vị, lối sống của bnj ảnh hưởng tốt tới sự phát triển của con hơn đối phương thì bạn sẽ giành được lợi thế quyền nuôi con.
Căn cứ trên các yếu tố này mà khi ly hôn chúng ta cần tập hợp chứng cứ hợp pháp để bảo vệ yêu cầu xin giành quyền nuôi con đưa ra.
Điều kiện thay đổi quyền nuôi con sau khi ly hôn được quy định như thế nào?
Sau khi ly hôn, vợ chồng có thể thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con hoặc nuôi con theo quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, người trực tiếp nuôi con có thể được thay đổi khi có các căn cứ được quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình 2014, cụ thể như sau:
Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
- Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
- Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. - Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
- Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.
- Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
Như vậy, điều kiện thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quy định như trên.
Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn được quy định ra sao?
Theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình 2014, cấp dưỡng được hiểu là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình 2014, sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con như sau:
Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
- Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
- Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Từ đó, có thể xác định nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn thuộc về người không trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng này sẽ kéo dài đến khi người con đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.
Có thể bạn quan tâm:
- Công chức có được góp vốn vào doanh nghiệp không?
- Cá nhân có được góp vốn vào doanh nghiệp tư nhân không?
- Tại sao doanh nghiệp tư nhân không được góp vốn?
Thông tin liên hệ
Trên đây là những vấn đề liên quan đến “Năm 2022, người viết đơn ly hôn có được nuôi con không?” Luật sư X tự hào sẽ là đơn vị hàng đầu hỗ trợ mọi vấn đề cho khách hàng liên quan đến tư vấn pháp lý về vấn đề tạm dừng công ty Nếu quy khách hàng còn phân vân, hãy đặt câu hỏi cho Luật sư X thông qua số hotline 0833102102 chúng tôi sẽ tiếp nhận thông tin và phản hồi nhanh chóng.
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsu
Câu hỏi thường gặp
Thường khi ly hôn đơn phương ai cũng muốn giành quyền nuôi con, vì sao lại thế? Bởi người trực tiếp nuôi con có những quyền sau:
Được quyền sống chung với con và quyết định các vấn đề liên quan đến việc nuôi con.
Là người giám hộ hợp pháp cho con cho đến khi con thành niên.
Yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, và các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật HNGĐ;
Yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.
Người trực tiếp nuôi con khi thấy người không trực tiếp nuôi con có hành vi vi phạm các quyền đã nêu thì có quyền nhờ cơ quan chức năng bảo vệ quyền lợi của mình.
Căn cứ vào Điều 116 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định mức cấp dưỡng có thể được thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó. Tức là người không trực tiếp nuôi con có thể thỏa thuận mức cấp dưỡng với con hoặc với người đang trực tiếp nuôi con.
Cũng theo điều luật này, mức cấp dưỡng được xác định căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, nếu các bên không tự thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bên cạnh đó, mức cấp dưỡng này cũng có thể thay đổi do thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
– Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
– Phá tán tài sản của con;
– Có lối sống đồi trụy;
– Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Căn cứ vào từng trường hợp; cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân; cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật này ra quyết định; không cho cha, mẹ trông nom; chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con; trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.