Trong các quy định của Bộ Luật Hình sự hiện hành thì Đảng và Nhà nước ta luôn thể hiện ý chí nhân đạo thông qua các quy định như miễn hình phạt, xóa án tích, án treo …. Trong đó, chế định miễn hình phạt là một chế định được áp dụng khá thường xuyên. Chế định miễn hình phạt sẽ do Tòa Án quyết định khi nhận thấy đối tượng phạm tội đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Vậy những vấn đề xoay quanh việc miễn hình phạt được quy định cụ thể như thế nào?, và có phải là “Người được miễn hình phạt thì không mang án tích” đúng không?. hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây của Luật sự X nhé.
Quy định về miễn hình phạt
Miễn hình phạt là trường hợp cụ thể khi Tòa án quyết định hình phạt, Tòa án quyết định miễn cho pháp nhân thương mại hoặc người phạm tội hình phạt mà đáng ra họ phải chịu theo quy định Bộ luật hình sự.
Dẫn chiếu quy định tại Điều 59 BLHS 2015, điều kiện để người phạm tội được miễn hình phạt bao gồm:
Thứ nhất, về điều kiện cần: Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 BLHS 2015. Cụ thể khoản 1, 2 Điều 54 BLHS 2015 quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng thể hiện:
“1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể”.
Thứ hai, điều kiện đủ để người phạm tội được miễn hình phạt: Đó là người phạm tội “đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự”.
Thứ ba, phân loại tội phạm được miễn hình phạt: Theo quy định tại Điều 59 BLHS 2015, có thể thấy rằng, bất cứ tội gì cũng có thể được miễn hình phạt, không phân biệt tội đó là tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Theo Điều 88 BLHS năm 2015 thì: “Pháp nhân thương mại phạm tội có thể được miễn hình phạt khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra”.
Điều 390 BLHS năm 2015 quy định: Khoản 2 Điều 390 chỉ rõ: “Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt”.
Miễn hình phạt được hiểu là không buộc một người phải chịu trách nhiệm hình phạt về tội mà người đó đã thực hiện. Hình phạt là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước không chỉ có mục đích trừng trị mà còn nhằm giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt là hậu quả pháp lý của tội phạm. Do đó, đã phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt. Thế nhưng trong thực tế cũng có trường hợp nếu việc áp dụng hình phạt không đạt được mục đích của hình phạt hoặc trái với nguyên tắc nhân đạo của Luật hình sự thì không cần thiết phải áp dụng hình phạt.
Người được miễn hình phạt thì không mang án tích đúng không?
Điều 59 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:
Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.
Và Khoản 2 Điều 69 thì Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.
Như vậy, Người được miễn hình phạt thì không mang án tích.
Hậu quả của việc áp dụng chế định miễn hình phạt
Một là, người được miễn hình phạt tức là được miễn cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung (nếu có). Bởi hình phạt bổ sung là hình phạt chỉ có thể áp dụng kèm với hình phạt chính, có tác dụng củng cố, tăng cường hiệu quả của việc áp dụng hình phạt, giúp cho việc xử lý tội phạm được toàn diện và triệt để. Khi hình phạt chính được miễn thì việc thi hành hình phạt bổ sung là không hợp pháp và không cần thiết.
Hai là, khoản 2 Điều 69 BLHS 2015 quy định “người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích”. Như vậy, người được miễn hình phạt được đương nhiên xóa án tích ngay tại thời điểm bản án có hiệu lực pháp luật hoặc sau khi đã chấp hành xong các nghĩa vụ khác trong bản án như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nộp án phí. Đây là điểm đặc biệt mà chỉ có ở chế định miễn hình phạt và miễn trách nhiệm hình sự.
Ba là, Điều 59 BLHS 2015 chưa quy định người phạm tội được miễn hình phạt có thể phải bị áp dụng các biện pháp pháp lý hình sự hay phi hình sự nào khác hay không. Tại điểm c khoản 2 Điều 451 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định Tòa án có thể quyết định “miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”. Như vậy, người được miễn hình phạt vẫn có thể bị áp dụng một số biện pháp tư pháp. Và trong thực tiễn xét xử cho thấy, người được miễn hình phạt có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp tư pháp được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS 2015 bao gồm:
“a) Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm;
b) Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi;
c) Bắt buộc chữa bệnh”.
Xét ở góc độ pháp lý, hậu quả pháp lý mà người phạm tội (được miễn hình phạt) gánh chịu còn nhẹ hơn so với người vi phạm hành chính (mà bị xử phạt hành chính), vì ngoài phải chịu trách nhiệm hành chính ra, người này còn phải chịu thời hạn là một (01) năm thử thách, không tái phạm thì mới được coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Để bảo đảm sự công bằng giữa người được miễn hình phạt và người bị xử phạt hành chính, vấn đề nên được sửa đổi, bổ sung theo hướng: Trong trường hợp cần thiết, Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp của Bộ luật này hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức hay người có thẩm quyền xử lý hành chính hoặc kỷ luật đối với người được miễn hình phạt.
Một số vấn đề vướng mắc trong quy định miễn hình phạt
Qua những phân tích nêu trên, quy định của BLHS năm 2015 về miễn hình phạt đã có sự thay đổi so với BLHS năm 1999, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số điểm bất cập như sau:
Thứ nhất, cách thức quy định về miễn hình phạt theo Điều 59 của BLHS chưa hợp lý dẫn đến những cách hiểu khác nhau. Đó là, nội dung Điều 59 nêu các điều kiện để được miễn hình phạt nhưng lại dẫn chiếu điều kiện này gián tiếp qua điều luật khác là Điều 54 quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt; từ đó, tiếp tục dẫn chiếu sang khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015, rồi lại dẫn chiếu ngược trở lại để xem có đáp ứng đủ điều kiện hay không. Như vậy, cách xây dựng này của nhà làm luật đã gây nên sự khó hiểu và gặp vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
Thứ hai, xét về điều kiện thứ nhất để được miễn hình phạt trong Điều 59, “người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54”, thì việc sử dụng từ “và” như quy định hiện nay sẽ được hiểu là Điều 59 chỉ xác định 01 trường hợp miễn hình phạt, đó là người bị kết án có đủ các điều kiện quy định ở khoản 1 và khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015.
Cách hiểu như vậy đã thu hẹp phạm vi miễn hình phạt đối với người bị kết án, theo đó, ngoài các điều kiện người bị kết án phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đáng được khoan hồng đặc biệt thì họ còn phải là người phạm tội lần đầu và là người giúp sức trong vụ án đồng phạm với vai trò không đáng kể.
Như vậy, việc miễn hình phạt sẽ chỉ được áp dụng trong các vụ án có đồng phạm, trong khi có những vụ án chỉ có một bị cáo nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và các tình tiết khác của vụ án thể hiện việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội là không cần thiết thì họ lại không được miễn hình phạt.
Thứ ba, quy định miễn hình phạt tại Điều 390 của BLHS năm 2015 vẫn còn chung chung, chưa rõ về việc xác định thế nào là hành động can ngăn, hạn chế tác hại của tội phạm. Hơn nữa, trong điều luật này còn quy định chung điều kiện để người không tố giác tội phạm được miễn hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, chưa có sự phân biệt rõ trường hợp nào thì miễn hình phạt, trường hợp nào được miễn trách nhiệm hình sự, bởi lẽ, mức độ đáng được hưởng sự khoan hồng của người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự so với người được miễn hình phạt là khác nhau.
Khuyến nghị
Đội ngũ luật sư, luật gia cùng chuyên viên, chuyên gia tư vấn pháp lý với kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, chúng tôi có cung cấp dịch vụ tư vấn luật hình sự Luật sư X với phương châm “Đưa luật sư đến ngay tầm tay bạn” chúng tôi đảm bảo với quý khách hàng sự UY TÍN – CHẤT LƯỢNG – CHUYÊN NGHIỆP.
Thông tin liên hệ
Trên đây là nội dung liên quan đến vấn đề “Người được miễn hình phạt thì không mang án tích”. Nếu quý khách hàng đang có bất kỳ băn khoăn hay thắc mắc đến tư vấn pháp lý về tạm ngưng công ty… cần được giải đáp, các Luật sư, luật gia chuyên môn sẽ tư vấn, giúp đỡ tận tình, hãy gọi cho chúng tôi qua số hotline 0833102102 để được tư vấn nhanh chóng, hiệu quả.
Mời bạn xem thêm
- Có bao nhiêu hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng?
- Xử lý tường chung khi xây nhà như thế nào?
- Những yếu tố ảnh hưởng đến giá nhà ở thương mại
Câu hỏi thường gặp
Trong quá trình áp dụng thực tiễn cần nghiên cứu kỹ lưỡng để tránh sự nhầm lẫn. Một số điểm khác nhau cơ bản đó là về khái niệm, đối tượng, điều kiện áp dụng, thẩm quyền quyết định, hậu quả pháp lý.
Theo đó,
– Khái niệm: miễn trách nhiệm hình sự là việc không bắt buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ đã thực hiện, còn miễn hình phạt thì không buộc người bị kết án phải chịu hình phạt về tội họ đã thực hiện.
– Đối tượng của miễn trách nhiệm hình sự có thể là người đã bị kết án hoặc chưa bị kết án. Đối tượng của miễn hình phạt là người đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật.
– Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ, điều kiện sau đây: Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi có quyết định đại xá.
Ngoài ra, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau: Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận…..
– Người phạm tội được miễn hình phạt khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.
Cụ thể: Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này; Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
– Thẩm quyền áp dụng đối với miễn trách nhiệm hình sự là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, còn miễn hình phạt thì chỉ có Tòa án.
Sau khi được miễn trách nhiệm hình sự, người phạm tội được xem là không có án tích. Đối với miễn hình phạt, người bị kết án vẫn được xem là có án tích nhưng thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích.
Miễn hình phạt là chế định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện ở chỗ:
– Đây là chế định phản ánh rõ chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Việt Nam. Nhà nước ta đã khẳng định phương châm trong đường lối xử lý tội phạm với người phạm tội là “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố, chống đối, lưu manh, tái phạm nguy hiểm…” nhưng phải “khoan hồng với người tự thú, thành khẩn khai báo tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra” (khoản 2 điều 3 BLHS).
– “Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục” (khoản 3 điều 3 BLHS).
Vì vậy, bên cạnh việc quy định những hình phạt có mức độ răn đe cao, với việc ghi nhận chế định miễn hình phạt, Nhà nước ta đã mở một con đường nhân đạo, thể hiện sự khoan hồng với những người phạm tội với tính chất nguy hiểm không cao, có sự hối cải…, tạo cơ hội cho họ không bị cách ly ra khỏi xã hội và giúp họ sớm hoàn lương, khuyến khích họ sớm thích nghi với các yêu cầu của trật tự pháp luật, phấn đấu lập công chuộc tội, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.