Khởi tố vụ án hình sự là trách nhiệm và quyền hạn của Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền được Bộ luật Tố tùng hình sự quy định mà không phụ thuộc vào ý muốn bất kỳ chủ thể nào. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, pháp luật quy định cho phép người bị hại, người đại diện của bị hại có quyền quyết định việc có khởi tố vụ án hình sự hay không thông qua yêu cầu khởi tố. Đồng thời nếu việc khởi tố, điều tra, truy tố đã diễn ra nhưng bị hại thấy không muốn xử lý người phạm tội nữa thì pháp luật cũng cho phép họ được quyền rút yêu cầu này và lúc này vụ án phải được đình chỉ. Luật sư X chúng tôi xin giải đáp một số vấn đề liên quan đến người bị hại tự nguyện rút yêu cầu khởi tố.
Căn cứ pháp lý
Chủ thể có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Theo Khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”.
Như vậy, chủ thể có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là “người đã yêu cầu khởi tố”. Người đã yêu cầu khởi tố có thể là người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại.
Thời điểm rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Giai đoạn xét xử sơ thẩm
Khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”.
Tòa án nhân dân (TAND) tối cao đã ban hành Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 để hướng dẫn áp dụng về việc người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu theo quy định tại Điều 155 BLTTHS năm 2015. Theo đó, tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: “Người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa căn cứ vào Điều 45, Điểm a Khoản 1 Điều 282 của BLTTHS ra quyết định đình chỉ vụ án; Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào Khoản 2 Điều 155, Điều 299 của BLTTHS ra quyết định đình chỉ vụ án…”; tại giai đoạn xét xử phúc thẩm thì: “Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn căn cứ vào khoản 2 Điều 155 và Điều 359 của BLTTHS hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án”.
Mặc dù BLTTHS 2015 không quy định cụ thể thời điểm người có quyền yêu cầu khởi tố được rút yêu cầu của mình nhưng không có nghĩa người yêu cầu khởi tố rút bất cứ giai đoạn nào cũng dẫn đến đình chỉ mà chỉ rút trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm mới dẫn đến đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án.
Giai đoạn xét xử phúc thẩm
- Bị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên tòa xét xử phúc thẩm thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa quyết định đình chỉ vụ án là đúng quy định. Mặt khác, theo Công văn số 254 thì trước khi mở phiên tòa phúc thẩm, nếu người đã yêu cầu khởi tố vụ án rút yêu cầu thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không được ra quyết định đình chỉ vụ án, tức là việc đình chỉ vụ án thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử (tại phiên tòa xét xử theo thủ tục phúc thẩm).
- Bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên tòa phúc thẩm thì Tòa án cũng không đình chỉ được vụ án như tại phiên tòa sơ thẩm. Về nguyên tắc và thủ tục tố tụng, Tòa án phải căn cứ vào khoản 2 Điều 155; điểm d khoản 1 Điều 355 BLTTHS năm 2015 hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, đối chiếu với Điều 359 BLTTHS năm 2015 quy định về căn cứ để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án lại không có trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án. Chính việc BLTTHS không quy định cụ thể vấn đề bị hại rút yêu cầu khởi tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm dẫn đến quyền rút yêu cầu khởi tố của bị hại được luật ghi nhận, nhưng khi quyền này được thực hiện trên thực tế, cơ quan tiến hành tố tụng lại không có cơ sở pháp lý để giải quyết đúng theo nguyên tắc, thủ tục xét xử phúc thẩm. Điều này dẫn đến thực tế có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau.
Hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
- Án phí: Do sự tác động tích cực từ phía gia đình, bạn bè… hoặc vì lý do cá nhân mà người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp rút yêu cầu khởi tố thì vụ án phải được đình chỉ và trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 3 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, người bị hại phải nộp tiền án phí.
- Khoản 3 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức”. Như vậy sau khi rút đơn, bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp phải rút yêu cầu do họ bị ép buộc, cưỡng bức bởi người khác.
Mời bạn xem thêm bài viết
- Trường hợp được rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
- Mẫu đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự mới
- Khởi tố vụ án hình sự dựa trên những căn cứ gì?
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật sư X về vấn đề “Người bị hại tự nguyện rút yêu cầu khởi tố“. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu xin cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; giải thể công ty; tạm ngừng kinh doanh; Đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ; Đăng ký hộ kinh doanh;… của luật sư X, hãy liên hệ 0833102102
Câu hỏi thường gặp
Nếu vụ án đã được khởi tố nhưng người bị hại tự nguyện rút đơn yêu cầu thì vụ án sẽ được đình chỉ. Điều này có nghĩa là, nếu được người bị hại rút yêu cầu khởi tố, người thực hiện vi phạm có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người thực hiện vi phạm chỉ bị khởi tố nếu thuộc trường hợp tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Theo Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: “Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:
1. Tố giác của cá nhân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
3. Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
4. Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;
5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
6. Người phạm tội tự thú.”