Chào Luật sư, tôi và chồng tôi đang chuẩn bị thủ tục giấy tờ ly hôn. Chúng tôi đã thỏa thuận xong về việc nuôi con. Chúng tôi có một bé gái 3 tuổi sẽ do tôi nuôi dưỡng. Chồng tôi sẽ cấp dưỡng hằng tháng cho bé. Tuy nhiên, tôi không biết luật có quy định về thời gian chấm dứt việc cấp dưỡng hay không? Tôi nghe nói sẽ cấp dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi, như vậy có chính xác không? Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi nào theo quy định của pháp luật? Mong Luật sư tư vấn giúp tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn Luật sư.
Căn cứ pháp lý
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
Cấp dưỡng là gì?
Theo Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định tại khoản 24 Điều 3 giải thích rõ về cấp dưỡng:
“Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân; huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên; người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này..”
Căn cứ khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ; quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:
“1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con…”
Như vậy, cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ của cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con; sẽ đóng tiền hoặc tài sản khác nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con thành niên mà không thể tự nuôi bản thân.
Mức cấp dưỡng hiện nay được quy định thế nào?
Theo quy định của pháp luật HNGĐ: “mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết” (điều 116, Luật HNGĐ 2014)
Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Phương thức cấp dưỡng hiện nay có mấy cách?
Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng; hàng quý; nửa năm; hàng năm hoặc một lần.
Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Như vậy; mức trợ cấp cho con trước hết sẽ theo thỏa thuận của vợ chồng; căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người cấp dưỡng và chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng học hành của người con, nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi nào theo quy định của pháp luật?
Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng là việc người phải cấp dưỡng ngừng việc đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Theo Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau:
– Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để nuôi mình;
– Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;
– Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;
– Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;
– Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn kết hôn;
– Các trường hợp khác theo quy định của luật.
Như vậy, khi nghĩa vụ cấp dưỡng đang được thực hiện mà có một trong các căn cứ trên thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt. Trong trường hợp cấp dưỡng tự nguyện theo sự thỏa thuận của các bên thì các bên cũng có thể thỏa thuận để , chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng khi có căn cứ. Trong trường hợp cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án thì khi có một trong các căn cứ trên, người có nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người được cấp dưỡng có quyền thông báo bằng văn bản với cơ quan thi hành án để cơ quan thi hành án ra quyết định chấm dứt thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Truy cứu trách nhiệm hình sự với tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng; được quy định tại Điều 186 Bộ Luật hình sự 2015:
“Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau đây:
+ Về hành vi. Có một trong các dấu hiệu sau:
Đối với tội từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng. Việc từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng được thể hiện qua việc người có nghĩa vụ cấp dưỡng đã được người được cấp dưỡng hoặc người có trách nhiệm khác như cha, mẹ hoặc người giám hộ của người được cấp dưỡng yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nhưng họ (người phạm tội) không chấp nhận thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình.
Đối với tội trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng. Việc trốn tránh được thể hiện qua hành vi lẩn tránh để không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; mặc dù họ đã chấp nhận (không từ chối) thực hiện nghĩa vụ đó.
+ Các dấu hiệu khác. Người có hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự; khi hội đủ hai dấu hiệu cấu thành cơ bản sau:
Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải có khả năng thực tế; tức là họ có khả năng về kinh tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nhưng họ đã từ chối hoặc trốn tránh thực hiện nghĩa vụ đó.
Hành vi từ chối hoặc trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải gây hậu quả nghiêm trọng (như làm cho người được cấp dưỡng bị suy kiệt về sức khoẻ nghiêm trọng…) hoặc thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi từ chối hoặc trốn tránh nphĩa vụ cấp dưỡng mà còn vi phạm về hành vi này.
Lưu ý:
Về nghĩa vụ cấp dưỡng phải tuân theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình; hoặc theo bản án; hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Khách thể
Hành vi phạm tội đã xâm phạm đến quan hệ về nghĩa vụ cấp dưỡng do Luật Hôn nhân và gia đình quy định.
Mặt chủ quan
Người phạm tội đã thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.
Chủ thể
Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quan hệ về nghĩa vụ cấp dưỡng đối vối người bị hại.
Có thể bạn quan tâm
- Vợ cũ gặp khó khăn, liệu chồng cũ có cần cấp dưỡng?
- Có phải cấp dưỡng bù khoảng thời gian không cấp dưỡng hay không?
- Mức cấp dưỡng nuôi con khuyết tật khi ly hôn là bao nhiêu?
- Nghĩa vụ cấp dưỡng có yếu tố nước ngoài theo quy định mới nhất
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của chúng tôi về vấn đề “Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi nào theo quy định của pháp luật?“. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên; để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến giải thể công ty, giấy phép bay flycam, xác nhận độc thân, đăng ký nhãn hiệu, Tra cứu thông tin quy hoạchhợp pháp hóa lãnh sự, đăng ký mã số thuế cá nhân,…. của luật sư X, hãy liên hệ: 0833102102.
Câu hỏi thường gặp
Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó:
– Người thân thích;
– Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
– Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
– Hội liên hiệp phụ nữ.
Trường hợp có bản án của tòa án mà người trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện theo quyết định của bản án thì theo quy định tại điểm a Khoản 3 Điều 52 Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự thì hành vi này có thể bị phạt từ 3.000.000 đến 5.000.000 đồng.