Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Vậy Luật hôn nhân và gia đình quy định điều kiện kết hôn giữa nam và nữ như thế nào? Hãy theo dõi bài viết sau đây của Luật sư X để biết thêm thông tin nhé!
Quy định chung về điều kiện kết hôn
Điều kiện kết hôn là đòi hỏi về mặt pháp lí đối với nam, nữ và chỉ khi thoả mãn những đòi hỏi đó thì nam, nữ mới có quyền kết hôn. Cổ luật và tục lệ ở Việt Nam đã buộc nam, nữ phải tuân theo một số quy định khi kết hôn.
Việc quy định điều kiện kết hôn cần phải được kết hợp với tri thức của nhiều ngành khoa học như y học, tâm lí học, xã hội học, luật học…, đồng thời, phải căn cứ vào phong tục, tập quán, truyền thống của mỗi dân tộc. Chính vì vậy, ở từng quốc gia, từng thời điểm khác nhau, căn cứ vào những yếu tố trên mà có những quy định khác nhau về điều kiện kết hôn.
Ở Việt Nam, Luật hôn nhân và gia đình những năm trước quy định nam, nữ khi kết hôn phải có những điều kiện sau:
1) Nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên;
2) Việc kết hôn phải do nam, nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được cưỡng ép hay cản trở;
3) Các bên nam, nữ không thuộc một trong các trường hợp cấp kết hôn.
Khi yêu cầu đăng kí kết hôn, nam nữ chưa đáp ứng những điều kiện trên thì cơ quan đăng kí kết hôn có quyền từ chối đăng kí kết hôn cho họ. Trong trường hợp nam, nữ đã được đăng kí kết hôn nhưng một trong các bên hoặc cả hai bên vi phạm một trong các điều kiện kết hôn thì việc kết hôn đó là trái pháp luật và Toà án có quyền huỷ bỏ việc kết hôn trái pháp luật đó khi có yêu cầu.
Nam, nữ phải đủ tuổi kết hôn
Khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định:
“Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên mới đủ tuổi kết hôn”.
– Pháp luật chỉ quy định độ tuổi tối thiểu nam, nữ được phép kết hôn mà không quy định tuổi tối đa.
– Quy định này trước hết xuất phát từ cơ sở khoa học. Các nghiên cứu trong lĩnh vực y học đã chỉ rõ phải đạt đến độ tuổi này nam, nữ mới phát triển hoàn thiện về tâm sinh lý. Do vậy, họ có thể sinh ra những đứa con khỏe mạnh về thể chất và trí tuệ. Đồng thời, họ cũng đủ trưởng thành để thực hiện các nghĩa vụ của người làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ; cùng nhau chia sẻ gánh vác các công việc gia đình…Vì thế, quy định về tuổi kết hôn này góp phần tạo dựng lên những cuộc hôn nhân hạnh phúc và bền vững.
– Quy định này còn dựa trên điều kiện kinh tế – xã hội, phong tục, tập quán và truyền thống, văn hóa của dân tộc. Điều này giải thích rõ vì sao tuổi kết hôn trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới có sự khác nhau.
– Quy định về độ tuổi kết hôn tối thiểu đối với nữ theo Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thể hiện sự thống nhất và đồng bộ với các quy định trong hệ thống pháp luật. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải là người đủ 18 tuổi.
– Với quy định về tuổi kết hôn theo pháp luật hiện hành, để tính tuổi kết hôn phải dựa vào cách tính tuổi tròn. Nghĩa là, chỉ coi là đủ tuổi kết hôn khi nam tròn 20 tuổi và nữ phải tròn 18 tuổi. Ví dụ: Nam sinh ngày 1-2-1992 thì đến ngày 1-2-2012 là đủ tuổi kết hôn. Như vậy từ ngày này trở đi, họ mới được phép kết hôn.
– Trên thực tế, vẫn có những trường họp nam nữ lấy vợ lấy chồng khi chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật. Hiện tượng này được gọi là tảo hôn. Như vậy cần phải hiểu rằng tảo hôn không chỉ là việc nam nữ kết hôn trước tuổi luật định mà còn bao gồm cả trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng trước tuổi luật định. Theo điểm b khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 số 52/2014/QH13, “tảo hôn” được xác định là một trong các hành vi bị cấm. Vì vậy, kết hôn trước tuổi luật định sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Phải có sự tự nguyên của hai bên nam nữ
– Tự nguyện trong kết hôn trước hết phải thể hiện bằng ý chí chủ quan của người kết hôn. Hai bên nam, nữ yêu thương nhau và tự mình quyết định xác lập quan hệ hôn nhân nhằm mục đích xây dựng gia đình. Ý chí này của mỗi bên nam, nữ không bị tác động bởi một bên hoặc của người thứ ba.
– Tự nguyện kết hôn còn thể hiện bằng dấu hiệu khách quan. Người kết hôn phải bày tỏ mong muốn được kết hôn với nhau trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua hành vi đăng ký kết hôn. Vì thế, khi đăng ký kết hôn yêu cầu phải cố mặt của hai bên nam, nữ.
Quyền kết hôn là quyền gắn liền với nhân thân của mỗi cá nhân. Do vậy việc kết hôn phải do người kết hôn tự nguyện quyết định. Tự nguyện kết hôn là đảm bảo để quan hệ hôn nhân được xác lập phù hợp với lợi ích của người kết hôn, là cơ sở để xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc và bền vững. Vì thế, Luật Hôn nhân và gia đình không quy định việc đại diện trong kết hôn đồng thời cấm hành vi cưỡng ép, lừa dối, cản trở việc kết hôn làm cho việc kết hôn không đảm bảo sự tự nguyện.
Người kết hôn không phải là người mất năng lực hành vi dân sự
Điểm c khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định nam, nữ khi kết hôn phải là người không bị mất năng lực hành vi dân sự.
Theo quy định theo khoản 1 Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người đó mất năng lực hành vi trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định. Như vậy, tại thời điểm kết hôn mà một người có quyết định của Tòa án tuyên bố người đó là người mất năng lực hành vi dân sự thì không đủ điều kiện kết hôn.
Quy định này đảm bảo tính logic với quy định về sự tự nguyện kết hôn. Bởi vì, người mất năng lực hành vi dân sự thì không thể tự nguyện bày tỏ ý chí trong việc kết hôn. Do vậy, việc chuyển hóa từ một điều cấm thành một yêu cầu đối với người kết hôn là thể hiện rõ tính nhân văn của điều kiện kết hôn này.
Thực tiễn đời sống hôn nhân và gia đình cho thấy, nhiều trường họp người mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, tuy nhiên không có yêu cầu Tòa án tuyên người đó là người mất năng lực hành vi dân sự. Vì thế, họ vẫn đủ điều kiện kết hôn, trong khi đó việc kết hôn này có thể ảnh hưởng đến lợi ích của người kết hôn cũng như gia đình và xã hội. Vì vậy, cần phải có các biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật cũng như ý thức tôn trọng quyền tự do kết hôn của cá nhân để mọi người tự giác thực hiện, tránh tình trạng quy định điều kiện chỉ mang tính chất hình thức.
Người kết hôn phải là hai người khác giới tính
Khoản 2 Điều 8 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 số 52/2014/QH13 quy định:
“Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”.
Do vậy, việc kết hôn phải là việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai người khác giới tính. Điều này có nghĩa, hôn nhân phải là sự “kết hợp” giữa nam và nữ. Quy định này trước hết tôn trọng quy luật tự nhiên.
Mặt khác, trong bối cảnh chung của thế giới cũng như điều kiện thực tế của Việt Nam, việc quy định như vậy là cần thiết và phù hợp nhằm ổn định quan hệ hôn nhân và gia đình. Thực tế, ở Việt Nam trong những năm gần đây có xuất hiện tình trạng những người cùng giới tính xác lập việc sống chung với nhau.
Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nhưng không cấm hai người cùng giới tính sống chung. Vì vậy, việc sống chung giữa hai người cùng giới tính về nguyên tắc không bị coi là trái pháp luật.
Tuy nhiên, nếu một người đang có vợ, có chồng nhưng lại chung sống với người khác cùng giới tính với mình thì giải quyết như thế nào, trường họp này có xác định là người đang có vợ, có chồng đã vi phạm quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng hay không.
Đây là vấn đề mà pháp luật hiện hành vẫn còn bỏ ngỏ. Nên chăng sớm có quy định cụ thể về những vấn đề này để bảo vệ quyền lợi cho những người có liên quan, góp phần ổn định các quan hệ hôn nhân và gia đình.
Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
Pháp luật quy định các trường họp cấm kết hôn là nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng; giữ gìn thuần phong mỹ tục của người Việt Nam đối với đời sống hôn nhân và gia đình, góp phần duy trì và bảo tồn nòi giống, thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Việc kết hôn bị cấm trong các trường hợp sau:
- Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
- Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
- Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
- Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
- Yêu sách của cải trong kết hôn;
- Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
- Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
- Bạo lực gia đình;
- Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.
Mời bạn xem thêm:
- Luật hôn nhân gia đình khi vợ ngoại tình
- Năm 18 tuổi có được đăng ký kết hôn không?
- Nữ 17 tuổi 1 ngày có được kết hôn không?
Thông tin liên hệ
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về “Luật hôn nhân gia đình quy định điều kiện kết hôn giữa nam và nữ”. Nếu quý khách có nhu cầu soạn thảo hồ sơ tạm ngưng công ty; đăng ký bảo vệ thương hiệu; cách tra cứu thông tin quy hoạch, xin giấy phép bay flycam, thủ tục xin hợp pháp hóa lãnh sự, mẫu đơn xin giải thể công ty… của chúng tôi; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline để được tiếp nhận.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Theo Nghị định số 82/2020/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư phá, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định:
Điều 58. Hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.
2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án.
Theo Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định độ tuổi kết hôn như sau:
– Nam từ đủ 20 tuổi trở lên;
– Nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.