Khi không đăng ký kết hôn nhưng lại chung sống như vợ chồng, thực hiện những việc như các cặp vợ chồng thực sự. Thực tế cho thấy tình trạng này càng trở nên phổ biến, hay nói cách khác “sống thử” đang dần trở thành xu hướng. Liệu có bao giờ bạn tự hỏi vấn đề này dưới góc độ pháp lý được điều chỉnh như thế nào? Và trường hợp nam, nữ khi không đăng ký kết hôn thì có được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp không? Để giải đáp thắc mắc này, mời bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây của Luật Sư X.
Căn cứ pháp lý
Nội dung tư vấn
Khi không đăng ký kết hôn vẫn thừa nhận là hôn nhân hợp pháp
Trước những năm 1987. Việc đăng ký kết hôn còn khó khăn vì nhiều bất cập, khó khăn về nhận thức cũng như thực hiện pháp luật. Bởi vậy, nhiều cặp vợ chồng họ không thể hoặc không biết phải thực hiện đăng ký kết hôn. Pháp luật hiện hành các cặp vợ chồng chung sống với nhau như vợ chồng trước thời điểm này. Không cần đăng ký kết hôn vẫn được công nhận hợp pháp. Cụ thể, có hai mốc thời gian được pháp luật linh hoạt tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng:
Thứ nhất, chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987
Đối với trường hợp nam và nữ khi không đăng ký kết hôn; nhưng lại sống chung với nhau như vợ chồng từ thời điểm trước ngày 3/1/1987. Quan hệ của họ vẫn được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Ngay từ thời điểm họ chung sống với nhau. Do đó, nếu hai bên không chung sống với nhau nữa. Quyền yêu cầu ly hôn của họ sẽ được Tòa án tiến hành thụ lý và giải quyết theo quy định.
Thứ hai, chung sống với nhau như vợ chồng từ 03/01/1987 đến trước 01/01/2001
Đối với trường hợp nam và nữ có mối quan hệ sống chung với nhau. Bắt đầu từ thời điểm 3/1/1987 cho đến trước ngày 1/1/2001. Theo quy định, họ có thời gian 2 năm (từ 1/1/2001 đến 1/1/2003) để đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn. Nếu như sau thời gian này họ không thực hiện việc đăng ký kết hôn. Mối quan hệ của họ sẽ không được pháp luật thừa nhận là quan hệ vợ chồng hợp pháp.
Theo đó, trừ những trường hợp đã nêu trên. Tại các trường hợp khác, nếu nam nữ không kết hôn thì không được công nhận là vợ chồng. Hôn nhân đó được tính là hôn nhân không hợp pháp.
Điều kiện để được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp
Điều kiện kết hôn
Ngoài các trường hợp đã nêu trên, khi không đăng ký kết hôn mối quan hệ vợ chồng sẽ không được pháp luật thừa nhận. Để thực hiện việc kết hôn hợp pháp, nam nữ cần đáp ứng đủ các điều kiện sau:
- Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên; kết hôn khi còn nhỏ là không đủ điều kiện.
- Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.
- Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Nếu việc kết hôn khi không được đăng ký theo quy định trên thì không có giá trị pháp lý.
Trường hợp cấm kết hôn
Khi đăng ký kết hôn cũng cần chú ý những trường hợp bị không được kết hôn. Bao gồm những trường hợp sau đây:
- Người đang có vợ hoặc có chồng.
- Người mất năng lực hành vi dân sự.
- Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời.
- Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể; bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
- Giữa những người cùng giới tính.
Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng khi không đăng ký kết hôn
Theo quy định của pháp luật hiện hành không điều chỉnh mối quan hệ này. Trường hợp cả hai bên nam nữ đều độc thân. Khi đó, việc nam nữ sống chung như vợ chồng không đăng ký kết hôn không vi phạm pháp luật. Trừ những thiệt thòi về mặt pháp lý. Khi không được công nhận là vợ chồng; đồng thời họ cũng không được hưởng các quyền về pháp luật hôn nhân.
Tuy nhiên, xét dưới cái nhìn từ góc độ pháp lý. Trường hợp sống chung với nhau như vợ chồng, không có đăng ký kết hôn. Pháp luật Hôn nhân và gia đình vẫn điều chỉnh quan hệ này. Điều 14 Luật Hôn nhân gia đình quy định rõ về việc giải quyết hậu quả của việc nam, nữ sống thử trước hôn nhân. Theo đó, mặc dù mối quan hệ này không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Tuy nhiên, vấn đề con cái hay tài sản sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này. Nhằm đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ giữa các bên, đặc biệt là quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con.
Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con khi không đăng ký kết hôn
- Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi. Trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
- Cha và mẹ đứa trẻ thỏa thuận người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên đối với con. Trường hợp không thỏa thuận được. Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Giải quyết quan hệ tài sản khi không đăng ký kết hôn
- Quan hệ tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên. Trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự; các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con. Công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Mời bạn đọc xem thâm bài viết sau:
- Không đăng ký kết hôn pháp luật xử lý như thế nào?
- Sống thử trước hôn nhân được pháp luật nhìn nhận như thế nào?
- Thủ tục đơn phương ly hôn mới nhất
Thông tin liên hệ Luật Sư X
Trên đây là quy định giải đáp về việc Khi không đăng ký kết hôn, hôn nhân có thừa nhận là hợp pháp không? Luật Sư X mong muốn được đồng hành quý khách trong mọi khó khăn pháp lý về mặt hồ sơ, thủ tục và các vấn đề pháp lý có liên quan.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ của luật sư X. Hãy liên hệ qua số điện thoại: 0833.102.102
Trân trọng!
Câu hỏi thường gặp
Theo khoản 14 điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.” Trường hợp chưa đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, quan hệ vợ chồng chưa được xác lập, Tòa án không thể giải quyết theo thủ tục ly hôn được.
Theo khoản 5 điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”
Tại khoản 4, điều 85, Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 có quy định “Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng”. Như vậy việc “tham gia tố tụng” trong việc ly hôn không thể ủy quyền cho người khác được, nên bạn muốn giải quyết ly hôn buộc phải đến Tòa án để giải quyết ly hôn.
– Nếu cả hai bên nam nữ là người Việt Nam cư trú tại Việt Nam thì Ủy ban nhân dân cấp xã, phường nơi cư trú của một trong hai bên có thẩm quyền đăng ký kết hôn.
– Đối với trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài. Từ ngày 01/01/2016: Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài.