Thưa luật sư, sau khi con tôi học xong thì tôi có nhờ bạn của tôi hiện đang công tác tại phòng giáo dục huyện để xin cho con tôi vào tại trường tiểu học gần nhà. Bạn tôi có hứa hẹn và sẽ sắp xếp cho con tôi một ví trí như nó mong muốn và tôi phải đưa 1 khoản tiền. Số tiền tôi đã đưa cho bạn tôi nhưng sau khi đến làm thì con tôi chỉ làm vị trí quản lý thư viện cho nhà trường. Không đúng theo lời đã hứa hẹn nên tôi đã nhiều lần tìm đến nhà bạn tôi nhưng đều từ chối gặp. Tôi muốn hỏi luật sư trong trường hợp này thì có được xem là hành vi xâm phạm sở hữu cụ thể là thuộc Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) của BLHS năm 2015 không? Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu theo quy định như thế nào? Mong luật sư tư vấn.
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chúng tôi; để giải đáp thắc mắc của bạn cũng như vấn đề: Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu? Cụ thể ra sao Đây chắc hẳn là thắc mắc của rất nhiều người để giải đáp thắc mắc đó cũng như trả lời cho câu hỏi ở trên thì hãy cùng tham khảo qua; bài viết dưới đây của Luật sư X để làm rõ vấn đề nhé!
Căn cứ pháp lý:
Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu
Quyền sở hữu là một trong những quyền được Hiến pháp và pháp luật công nhận và bảo vệ.
Quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý phản ánh các quan hệ sở hữu trong một chế độ sở hữu nhất định, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh những quan hệ về sở hữu trong xã hội. Các quy phạm pháp luật về sở hữu xác nhận, quy định và bảo vệ các quyền lợi của các chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Hiện nay, nhiều đối tượng đã thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu của các chủ thể khác. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của các chủ thể bị xâm hại.
Theo đó, pháp luật đã quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu nhằm trừng phạt và răn đe các đối tượng không được thực hiện loại tội phạm này. Ta có thể hiểu tội xâm phạm quyền sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quyền sở hữu tài sản của cá nhân được nhà nước thừa nhận.
Như vậy, Tội xâm phạm quyền sở hữu được hiểu là những hành vi có lỗi, hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm hại quan hệ sở hữu, xâm phạm các quyền thuộc nội dung sở hữu, hậu quả là gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức được nhà nước thừa nhận. Tội xâm phạm quyền sở hữu chủ yếu hướng đến là xâm phạm quyền sở hữu tài sản.
Đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu
Đối tượng tác động của tội xâm phạm quyền sở hữu là tài sản – đối tượng vật chất nhờ đó có sự tồn tại quan hệ sở hữu, bao gồm:
– Vật: vật chất của thế giới khách quan thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức, nhà nước.
– Tiền
– Giấy tờ có giá trị thanh toán bằng tiền: ATM, sổ tiết kiệm.
– Những giấy tờ thể hiện quyền về tài sản
Tài sản là đối tượng của tội xâm phạm quyền sở hữu phải là tài sản được pháp luật nói chung cũng như luật hình sự nói riêng bảo vệ.
Biểu hiện của dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Biểu hiện của mục đích chiếm đoạt
Mục đích chiếm đoạt là yếu tố bắt buộc trong cấu thành các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt như cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, tùy vào từng tội cụ thể mà có biểu hiện mục đích chiếm đoạt khác nhau, tùy từng tội mà mục đích phạm tội có thể xuất hiện trước khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội, trong khi thực hiện hành vi phạm tội hoặc mục đích phạm tội có thể xuất hiện sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
Mặc dù theo lý luận về các giai đoạn thực hiện tội phạm thì khi tội phạm ở giai đoạn hoàn thành tức là khi hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên đối với các tội có cấu thành hình thức như tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản thì người phạm tội có hành vi mà điều luật mô tả thì tội phạm đã hoàn thành. Chính vì vây, mục đích chiếm đoạt trong các tội này chỉ có thể xuất hiện trước và trong khi thực hiện hành vi phạm tội.
Đối với các trường hợp mà mục đích chiếm đoạt xuất hiện sau khi thực hiện hành vi phạm tội thì tùy từng tội mà có sự định tội danh khác nhau. Chẳng hạn nếu sau khi thực hiện hành vi người phạm tội mới có mục đích chiếm đoạt thì người phạm tội không phạm tội cướp tài sản mà có thể phạm tội giết người, cố ý gây thương tích, công nhiên chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ trái phép tài sản khi hành vi của người phạm tội đáp ứng mặt khách quan của từng tội tương ứng đối với trường hợp người phạm tội có hành vi dùng vũ lục, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được.
Đặc biệt, mục đích chiếm đoạt phải gắn liền với các hành vi dùng thủ đoạn gian dối, bỏ trốn hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản sau khi có được tài sản thông qua hợp đồng hợp pháp đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Người thực hiện hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản sẽ trở thành phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường hợp mục đích chiếm đoạt có trước hoặc vào thời điểm nhận tài sản qua hợp đồng.
Biểu hiện của hành vi chiếm đoạt
Hành vi làm cho chủ sở hữu tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó được coi là hành vi chiếm đoạt. Xét về mặt thực tế, chiếm đoạt là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó. Xét về mặt pháp lý, thì quá trình này không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu.
Việc xác định hành vi chiếm đoạt có trái pháp luật hay không cần dựa theo quy định của pháp luật dân sự, theo đó “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”. Như vậy, người phạm tội để chiếm đoạt tài sản tạo ra khả năng làm mất quyền sở hữu của chủ sở hữu và tạo ra quyền sở hữu cho mình thì cần phải chiếm hữu tài sản một cách trái pháp luật. Tuy nhiên, chiếm hữu trái pháp luật không được quy định cụ thể trong pháp luật dân sự mà chỉ quy định về hành vi chiếm hữu hợp pháp. Do đó, để xác định hành vi của người phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt cần phải xác định việc chiếm hữu của người phạm tội không thuộc các trường hợp chiếm hữu hợp pháp theo quy định của pháp luật dân sự.
Việc xác định hành vi chiếm đoạt đối với các tội xâm phạm quyền sở hữu một cách chính xác có tính chất chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành đối với các tội mà dấu hiệu chiếm đoạt thuộc hành vi khách quan của tội phạm. Tùy vào từng tội xâm phạm quyền sở hữu cụ thể mà thời điểm hoàn thành của tội phạm là khác nhau. Ngoài ra, khi xem xét thời điểm hoàn thành của tội phạm cần có sự phân biệt giữa thời điểm tội phạm hoàn thành với thời điểm tội phạm kết thúc.
Một số tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt cụ thể
Căn cứ Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 Các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt được quy định tại chương XVI của Bộ luật hình sự 2015, bao gồm:
– Cướp tài sản(Điều 168): Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
– Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169): hành vi bắt người làm con tin nhằm buộc người khác phải nộp cho mình một khoản tiền hoặc tài sản thì mới thả người bị bắt
– Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170): đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản
– Tội cướp giật tài sản (Điều 171): hành vi công khai chiếm đoạt tài sản của người khác một cách nhanh chóng và bất ngờ rồi tẩu thoát để tránh sự phản kháng của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản
– Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172): hành vi lợi dụng sơ hở, vướng mắc của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản để lấy tài sản một cách công khai
– Tội trộm cắp tài sản (Điều 173): hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người khác quản lý
– Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174): người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin và giao tài sản để chiếm đoạt tài sản đó
– Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175): là hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó, hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
– Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176): hành vi cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hoá bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được sau khi có yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật
– Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177): hành vi của một người vì vụ lợi đã khai thác một cách trái phép giá trị sử dụng của tài sản do đang chiếm giữ
– Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178): gồm hai hành vi phạm tội độc lập. Theo đó, người phạm tội có hành vi tác động vào tài sản thuộc sở hữu của người khác, làm cho tài sản đó bị mất giá trị sử dụng (hủy hoại tài sản) hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản (làm hư hỏng tài sản)
– Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179): hành vi của người có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước đã không thực hiện đầy đủ các biện pháp quản lý tài sản thuộc trách nhiệm quản lý trực tiếp của mình làm mất mát, hư hỏng, lãng phí tài sản đó
– Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180): hành vi của một người tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, nhưng cho rằng thiệt hại đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn để mặc cho sự việc xảy ra.
Mời bạn xem thêm:
- Quy định xác định lại mục đích sử dụng đất năm 2022 như thế nào?
- Hợp thửa đất không cùng mục đích sử dụng được không?
- Chuyển đổi mục đích sử dụng đất quốc phòng
Thông tin liên hệ
Vấn đề: “Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu”, đã được chúng tôi cung cấp qua thông tin bài viết trên. Nếu cần giải quyết nhanh gọn các vấn đề liên quan tới dịch vụ Đổi tên giấy khai sinh Hồ Chí Minh thì hãy liên hệ ngay tới Luật sư X luôn có sự hỗ trợ nhiệt tình từ các chuyên viên tư vấn pháp lý, quý khách hàng có vướng mắc hoặc nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý vui lòng liên hệ đến hotline 0833.101.102. Chúng tôi sẽ giải quyết các khúc mắc của khách hàng, làm các dịch vụ một cách nhanh chóng, dễ dàng, thuận tiện.
Câu hỏi thường gặp
Hình phạt đối với các tội xâm phạm về sở hữu là:
Hình phạt chính áp dụng cho các tội xâm phạm quyền sở hữu có nhiều mức độ khác nhau được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự 2015. Trong đó, hình phạt được quy định thấp nhất là hình phạt cảnh cáo và cao nhất là hình phạt tù chung thân.
– Hình phạt bổ sung áp dụng cho các tội xâm phạm quyền sở hữu được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự 2015, bao gồm: Phạt tiền; Tịch thu tài sản; Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Quản chế; Cấm cư trú.
Ngoài ra, khi xem xét quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc về mức độ nghiêm trọng của hành vi và hậu quả của tội xâm phạm quyền sở hữu, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như quy định của pháp luật để quyết định hình phạt đúng đắn nhất.
Các tội xâm phạm quyền sở hữu có sự khác nhau ở hình thức thể hiện hành vi, được thực hiện theo nhiều dạng khác nhau. Tuy nhiên các hành vi của tội xâm phạm quyền sở hữu đều có cùng tính chất là gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu, xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ sở hữu tài sản, làm cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện quyền sở hữu của mình.
Các hành vi chủ yếu của tội xâm phạm quyền sở hữu là các hành vi chiếm đoạt, chiếm giữ trái phép, sử dụng trái phép, hủy hoại, làm hư hỏng, làm mất mát, làm lãng phí tài sản của cá nhân, tổ chức sở hữu tài sản. Các hành vi này gây hậu quả là những thiệt hại gây ra cho quan hệ sở hữu và thể hiện dưới dạng thiệt hại vật chất.
Chủ thể của hầu hết các tội xâm phạm quyền sở hữu chủ yếu là chủ thể thường, có năng lực trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu có thể là chủ thể đặc biệt đối với một số tội đặc biệt theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn đối với tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thì chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu phải là chủ thể có quyền, việc thực hiện hành vi phạm tội ảnh hưởng trực tiếp bởi trách nhiệm, quyền hạn của họ.
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Khách thể của các tội xâm phạm quyền sở hữu là quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu là khách thể của tội phạm nghĩa là các tội xâm phạm sở hữu gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu đã phản ánh đầy đủ bản chất nguy hiểm cho tội phạm. Các hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản đó.