Chúng tôi không kết hôn, hai con mang họ mẹ, khi chia tay tôi muốn nuôi một đứa nhưng cô ấy từ chối.
Chúng tôi sống chung 15 năm nhưng không có đăng ký kết hôn. Hai con chung đều mang họ mẹ.
Đến nay do mâu thuẫn, chúng tôi không sống chung nữa. Xin hỏi, là cha, tôi có quyền đòi nuôi con không?
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Luật sư X. Tại bài viết dưới đây Luật sư X sẽ giải đáp thắc mắc cho bạn Có bị tước quyền làm cha khi con mang họ mẹ? Hi vọng bài viết mang lại nhiều điều bổ.
Căn cứ pháp lý
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Nội dung tư vấn
Khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về việc xác định cha, mẹ như sau:
“Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng”.
Theo các quy định vừa trích dẫn ở trên mặc dù hai bạn đã chung sống như vợ chồng được 15 năm nhưng không đăng ký kết hôn nên pháp luật vẫn không công nhận hai bạn là vợ chồng. Do đó, con được sinh ra khi hai bạn chưa có Giấy chứng nhận kết hôn không được xác định là con chung, nếu bạn có chứng cứ chứng minh là cha thì mới có quyền giành quyền nuôi con.
Con bạn tuy mang họ mẹ nhưng bạn đã thực hiện các thủ tục thừa nhận con và được sự đồng ý của cô ấy nên theo quy định của pháp luật, quyền nuôi con được hiểu như sau.
Theo khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về việc giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”.
Theo đó, “vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Như vậy, với trường hợp bạn đã làm thủ tục nhận con theo quy định của pháp luật, nhưng hai bạn không thỏa thuận được ai sẽ là người nuôi con sau khi chấm dứt việc chung sống, Tòa án sẽ quyết định dựa trên quyền lợi của những đứa trẻ.
Hành vi nào của cha mẹ có thể bị tước quyền nuôi con?
Không phải cứ là cha mẹ thì có quyền hạn tuyệt đối đối với việc chăm sóc, giáo dục con cái. Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cha mẹ có 04 hành vi sau đây có thể bị Tòa án tước quyền nuôi con, cụ thể:
(1) Cha mẹ bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
(2) Cha mẹ phá tán tài sản của con;
(3) Cha mẹ có lối sống đồi trụy;
(4) Cha mẹ xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
– Theo đó, căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm.
– Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.
**Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên gồm:
– Cha, mẹ, người giám hộ của con chưa thành niên, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
– Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên:
+ Người thân thích;
+ Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
+ Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
+ Hội liên hiệp phụ nữ.
– Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện cha, mẹ có các hành vi vi phạm nêu trên có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức là cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em hoặc Hội liên hiệp phụ nữ để yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Mời bạn xem thêm bài viết
- Mẫu tờ khai đăng ký kết hôn mới năm 2022
- Thời gian xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
- Mẫu trả lời đơn kiến nghị của công dân mới năm 2022
- Đơn xin giải thể hợp tác xã mới năm 2022
Thông tin liên hệ
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề “Có bị tước quyền làm cha khi con mang họ mẹ?″. Mọi thắc mắc về thủ tục pháp lý có liên quan như điều kiện cấp phép bay flycam, đơn xin trích lục quyết định ly hôn, dịch vụ bảo hộ logo công ty, thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất… Quý khách vui lòng liên hệ Luật Sư X để được hỗ trợ, giải đáp.
Liên hệ hotline: 0833.102.102.
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây; hoặc nơi cư trú của cá nhân có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi họ cho người chưa đủ 14 tuổi (Điều 27 Luật Hộ tịch 2014);
Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây; hoặc nơi cư trú của cá nhân có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi họ cho công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú ở trong nước (khoản 3 Điều 46 Luật Hộ tịch).
Theo Điều 3 Thông tư 85/2019/TT-BTC, lệ phí hộ tịch thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Mỗi tỉnh sẽ có một mức lệ phí thay đổi họ tên khác nhau.
Việc thay đổi họ không làm thay đổi, chấm dứt quyền; nghĩa vụ dân sự được xác lập theo họ cũ.
Sau khi thay đổi họ trên giấy khai sinh; người thay đổi họ có thể làm lại, điều chỉnh thông tin trên các giấy tờ có liên quan theo quy định của pháp luật.
Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ.