Thông thường phần lớn mọi người sẽ hiểu chiếm hữu là chủ thể có quyền nắm giữ, chi phối tài sản hoặc một số tài sản. Nhưng trong hệ thống pháp luật nói chung và Bộ Luật Dân sự năm 2015 nói riêng có quy định đến chiếm hữu không căn cứ pháp luật không ngay tình mà ngoài thực tế rất nhiều người không tìm hiểu về quy định này dẫn đến việc vi phạm luật định.
Hiểu rõ vấn đề, thông qua bài viết dưới đây Luật sư X giúp quý độc giả làm sáng tỏ quy định pháp luật về chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình. Mời các bạn đón xem!
Căn cứ pháp lý
Định nghĩa chiếm hữu không ngay tình
Chiếm hữu là việc chủ thế nắm giữ, chi phối một hoặc một số tài sản (vật, tiền, giấy tờ có giá…) một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như thể người này là chủ thể có quyền với tài sản đó (căn cứ theo khoản 1 Điều 179 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu. Trong đó, việc chiếm hữu của người không phải chủ sở hữu lại chia thành chiếm hữu ngay tình và không ngay tình.
– Chiếm hữu ngay tình: Là việc chiếm hữu mà người này có căn cứ để tin rằng bản thân có quyền với tài sản đang chếm hữu (căn cứ Điều 180 Bộ luật Dân sự năm 2015).
– Chiếm hữu không ngay tình: Là việc chiếm hữu mà người này biết hoặc phải biết rằng bản thân không hề có quyền chiếm hữu với tài sản đang chiếm hữu nhưng vẫn chiếm hữu (căn cứ Điều 181 Bộ luật Dân sự).
Có thể thấy, so với quy định trước đây tại Bộ luật Dân sự năm 2005 hiện đã hết hiệu lực thì Bộ luật Dân sự hiện hành năm 2015 đã bổ sung khái niệm, định nghĩa về chiếm hữu không ngay tình.
Như vậy, về bản chất, để xác định việc chiếm hữu nào là không ngay tình thì phải căn cứ vào việc người chiếm hữu có căn cứ/có biết/phải biết về việc bản thân không có quyền với tài sản đang chiếm hữu. Đây cũng là đặc điểm dễ nhận ra nhất để phân biệt chiếm hữu ngay tình và chiếm hữu không ngay tình theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Định nghĩa chiếm hữu không có căn cứ pháp luật
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật: là việc chiếm hữu của một người đối với một tài sản mà không dựa trên những căn cứ của pháp luật quy định (hay nói cách khác là chiếm hữu không phù hợp với quy định của pháp luật). Cụ thể là những trường hợp mà người chiếm hữu một tài sản nhưng không phải là chủ sở hữu hoặc không chiếm hữu theo những căn cứ do Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định. Bộ luật dân sự 2015 thì chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đã được quy định cụ thể tại các điều từ Điều 179 đến Điều 185.
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình
Dựa vào ý chỉ của chủ thể chiếm hữu tài sản mà luật dân sự phân thành: Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình.
– Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình: Đó là việc chiếm hữu của một người không có căn cứ pháp luật nhưng không biết và không thể biết (pháp luật không buộc phải biết) việc chiếm hữu là không có căn cứ. Ví dụ như mua nhầm tài sản của kẻ gian mà không biết, …
– Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình: Đó là việc chiếm hữu của một người không có căn cứ pháp luật và người đó biết là không có căn cứ hoặc là tuy không biết nhưng pháp luật buộc phải biết việc chiếm hữu của họ là không có căn cứ. Ví dụ như người mua biết của gian nhưng vẫn mua vì giá rẻ, …
Bên cạnh chiếm hữu không có căn cứ pháp luật thì còn có chiếm hữu có căn cứ pháp luật: được hiểu là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp được pháp luật quy định hay việc chiếm hữu đó không vi phạm quy định pháp luật.
Chiếm hữu có căn cứ pháp luật thường được thể hiện dưới những hình thức như sau: Chiếm hữu có căn cứ pháp luật khi chủ sở hữu chiếm hữu tài sản, người được chủ sở hữu ủy quyền để quản lý tài sản thay cho chủ tài sản, người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật; người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan; người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan.
Theo nguyên tắc chung của pháp luật dân sự, chỉ khi nào một người chiếm hữu tài sản một cách có căn cứ pháp luật, thì quyền lợi của họ mới được công nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, trong trường hợp chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình vẫn được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Như vậy, chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình: Đó là việc chiếm hữu của một người không có căn cứ pháp luật và người đó biết là không có căn cứ hoặc là tuy không biết nhưng pháp luật buộc phải biết việc chiếm hữu của họ là không có căn cứ. Ví dụ như người mua biết của gian nhưng vẫn mua vì giá rẻ, …
Quyền của người có quyền chiếm hữu không có căn cứ pháp luật
Bộ luật dân sự 2015 có quy định tại Điều 166 về quyền đòi lại tài sản thì “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.”.
Tiếp theo đó, việc chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản của mình thì Bộ luật dân sự 2015 đã phân định rõ tài sản ở đây là bất động sản và động sản. Điều 167 quy định về quyền đòi lại tài sản là động sản, Điều 168 quy định về quyền đòi lại tài sản là bất động sản như sau:
Điều 167 Bộ luật dân sự 2015 “Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.”
Điều 168 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật này.”
Ngoài ra, trong những điều kiện nhất định: Liên tục (Điều 190 Bộ luật dân sự năm 2015), công khai (Điều 191 Bộ luật dân sự năm 2015) và trong một khoảng thời hạn là mười năm đối với động sản và ba mươi năm đối với bất động sản, thì người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình được hưởng quyền xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu (Điều 247 Bộ luật dân sự năm 2015) (không áp dụng đối với tài sản thuộc sở hữu của nhà nước).
Như vậy, ta thấy rằng cùng là sự chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng căn cứ vào ý chí chủ quan của chủ thể, pháp luật dân sự phân biệt thành hai hình thức là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật ngay tình và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình. Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn đời sống xã hội và trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền của chủ sở và việc lựa chọn phương thức kiện bảo vệ quyền sở hữu trong giải quyết các án kiện dân sự.
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình
Nghĩa vụ chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình
Chiếm hữu tài sản không ngay tình là việc chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Người có hành vi trái pháp luật phải khắc phục hậu quả cho người chủ sở hữu tài sản. Ngài việc phải trả lại tài sản như trong tình trạng mình chiếm hữu bất hợp pháp còn phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản đó trong suốt cả thời gian chiếm hữu, sử dụng.
Nếu do việc chiếm hữu bất hợp pháp mà gây thiệt hại cho chủ sở hữu tài sản ( như thu nhập bị mất từ tài sản) thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Mời các bạn xem thêm bài viết
- Chiếm giữ sổ đỏ trái phép bị phạt như thế nào?
- Mức thu tiền sử dụng đất đối với đất lấn chiếm năm 2023
- Hành vi chiếm đoạt tiền bảo hiểm y tế đi tù bao nhiêu năm 2023?
Thông tin liên hệ
Vấn đề “Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không ngay tình” đã được chúng tôi cung cấp qua thông tin bài viết trên. Luật sư X luôn có sự hỗ trợ nhiệt tình từ các chuyên viên tư vấn pháp lý, quý khách hàng có vướng mắc hoặc nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý liên quan như là Hợp thửa đất, vui lòng liên hệ đến hotline 0833.102.102 Chúng tôi sẽ giải quyết các khúc mắc của khách hàng, làm các dịch vụ một cách nhanh chóng, dễ dàng, thuận tiện.
- FB: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
Quy định về nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật được nêu cụ thể tại khoản 1 Điều 579 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể:
Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó; nếu không tìm được chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản thì phải giao cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.
Trong đó, Điều 236 Bộ luật này nêu rõ:
Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
Như vậy, việc hoàn trả tài sản do chiếm hữu không có căn cứ pháp luật chỉ không phải thực hiện trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình, liên tục và công khai trong thời gian:
– 10 năm: Động sản.
– 30 năm: Bất động sản.
Sau thời gian này, người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai tài sản sẽ trở thành chủ sở hữu của tài sản đó nếu không tìm được chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác với tài sản chiếm hữu.
Điều này đồng nghĩa, việc trở thành chủ sở hữu của tài sản chiếm hữu không có căn cứ pháp luật không được đặt ra với việc chiếm hữu không ngay tình. Như vậy, trong mọi trường hợp chiếm hữu không ngay tình, người chiếm hữu đều phải trả lại tài sản chiếm hữu không ngay tình.
Ngoài ra, về việc hoàn trả hoa lợi, lợi tức khi chiếm hữu, khoản 1 Điều 581 Bộ luật Dân sự 2015 nêu rõ:
Người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật và không ngay tình thì phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
Như vậy, từ các quy định trên có thể khẳng định, khi chiếm hữu không ngay tình, người chiếm hữu phải trả lại tài sản chiếm hữu cũng như hoa lợi, lợi tức thu được từ khi chiếm hữu tài sản đó.
Điều 180 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về chiếm hữu ngày tình; như sau: “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng; mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.”
Khái niệm chiếm hữu ngay tình được đặt ra bên cạnh khái niệm; chiếm hữu có căn cứ pháp luật, chiếm hữu không có căn cứ pháp luật; chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu của tài sản.
Người chiếm hữu ngay tình có những quyền sau đây:
Được yêu cầu bồi thường thiệt hại; (giá trị đòi bồi thường là giá trị của giao dịch mà họ đã xác lập; và các thiệt hại khác nếu có như hệ số trượt giá của tài sản
Được hưởng hoa lợi lợi tức phát sinh từ tài sản kể từ thời điển bắt đầu chiếm hữu; đến thời điểm phải hoàn trả tài sản cho chủ sở hữu.
Được thanh toán những chi phí đã bỏ ra để bảo quản và tăng giá trị cho tài sản.
Trong trường hợp chiếm hữu ngay tình thì người chiếm hữu không biết; hoặc không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Người chiếm hữu liên tục phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu; nhưng nếu việc chiếm hữu có yếu tố liên tục, công khai; thì người chiếm hữu ngay tình được hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại; và được áp dụng thời hiệu hưởng quyền theo Điều 236 Bộ luật dân sự 2015.
Theo đó, người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình; liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản; 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó; kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu; trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.