Sống thử là một trong những thực trạng diễn ra rất phổ biến trong xã hội hiện nay. Nhiều cặp đôi nam nữ phát sinh quan hệ tình cảm rồi quyết định về chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Vấn đề này không có gì đáng nói cho đến khi cặp đôi này chia tay, các vấn đề phát sinh trong quá trình chung sống chẳng hạn như phân chia tài sản nhiều cặp đôi không biết phải giải quyết ra sao. Vậy xét dưới góc độ pháp luật, nguyên tắc chia tài sản của nam nữ sống chung như vợ chồng được quy định như thế nào? Trường hợp nào nam nữ sống chung như vợ chồng được công nhận hôn nhân thực tế? Tài sản trong thời gian sống chung như vợ chồng liệu có phải chia đôi không? Bài viết sau đây của Luật sư X sẽ giúp bạn giải đáp thắc mắc về vấn đề này, mời quý bạn đọc cùng tham khảo nhé. Hi vọng bài viết sẽ đem lại nhiều thông tin hữu ích cho quý bạn đọc.
Căn cứ pháp lý
Hiểu như thế nào là chung sống như vợ chồng?
Theo quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.”
Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn khái niệm chung sống như vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Tuy nhiên có thể tham khảo tại mục 3.1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng Chương XV “Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của Bộ luật hình sự. Theo đó, chung sống như vợ chồng là:
“Việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc:
- Có con chung;
- Được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng;
- Có tài sản chung;
- Đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…”
Theo quy định tại Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì nhà nước nghiêm cấm việc người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Theo đó, nếu đang có vợ, chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP
Trường hợp nào nam nữ sống chung như vợ chồng được công nhận hôn nhân thực tế?
Mặc dù ở thời điểm hiện tại Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đang có hiệu lực thi hành, tuy nhiên quy định tại Mục 3 Nghị quyết 35/2000/NQ vẫn còn được tiếp tục thực hiện, quy định này nhằm ghi nhận những trường hợp ngoại lệ trong quan hệ hôn nhân trước đây, dù không có đăng ký kết hôn nhưng vẫn được công nhận là hôn nhân thực tế.
Quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987
- Thời điểm này, Luật Hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực.
- Trường hợp nam, nữ chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn.
- Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2000.
Quan hệ vợ chồng được xác lập từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001
- Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, mà có đủ điều kiện kết hôn thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 02 năm cho đến ngày 01/01/2003;
- Trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
- Từ sau 01/01/2003 nếu không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng.
Quan hệ vợ chồng được xác lập từ ngày 01/01/2001 trở đi
- Trừ các trường hợp nêu trên, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận;
- Nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng;
- Nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa giải quyết theo khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
Chia tài sản của nam nữ sống chung như vợ chồng như thế nào?
Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
- Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Với trường hợp sống thử, khi đường ai nấy đi, tài sản chung hình thành trong thời kỳ sống chung được thực hiện theo thoả thuận. Tuy nhiên, thực tế, việc phân chia tài sản trong thời kỳ này rất khó bởi một khi đã chia tay, các cặp đôi có thể sẽ không thể “yên ổn” chia tay và thoả thuận phân chia tài sản.
Đồng thời, do không có đăng ký kết hôn, không phát sinh quan hệ vợ chồng nên khi chia tay, việc phân chia tài sản sẽ không thực hiện theo quy định của luật về chia tài sản vợ chồng khi ly hôn tại khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình:
- Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Tóm lại, tài sản của nam nữ sống chung như vợ chồng sẽ được phân chia theo nguyên tắc:
- Tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc về người đó.
- Tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Hôn nhân là việc xác lập quan hệ vợ chồng khi đã đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Nếu chỉ chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn thì quan hệ đó không được pháp luật thừa nhận. Do đó, những tài sản chung mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân sẽ không được chia theo luật hôn nhân và gia đình mà áp dụng quy định của pháp luật dân sự.
Tài sản trong thời gian sống chung như vợ chồng liệu có phải chia đôi không?
Căn cứ Khoản 1 Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Do đó, đối với việc sống thử sẽ không hình thành nên quan hệ hôn nhân, giữa vợ và chồng. Chính vì thế, tài sản trong trường hợp này phân theo thỏa thuận và được xử lý theo pháp luật về dân sự. Nghĩa là, nếu phát sinh tranh chấp thì các bên phải chứng minh được đâu là tài sản của mình nếu không thỏa thuận được, có thể khởi kiện vụ án dân sự đối với loại tranh chấp này.
Có được hưởng di sản thừa kế khi sống chung như vợ chồng?
Theo Điều 613 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về người thừa kế như sau:
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 còn có quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:
- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
- Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
- Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Như vậy, pháp luật không công nhận người chung sống như vợ chồng thì được hưởng di sản thừa kế. Cho nên, người phụ nữ chung sống như vợ chồng với chồng của bạn trước khi mất sẽ không được hưởng di sản thừa kế.
Mời bạn xem thêm:
- Thủ tục xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất
- Chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất
- Quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu bị hạn chế khi nào?
Khuyến nghị
Luật sư X tự hào là hệ thống công ty Luật cung cấp các dịch vụ pháp lý trên toàn quốc. Với vấn đề trên, công ty chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn luật hôn nhân đảm bảo hiệu quả với chi phí hợp lý nhằm hỗ trợ tối đa mọi nhu cầu pháp lý của quý khách hàng, tránh các rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện.
Thông tin liên hệ
Luật sư X sẽ đại diện khách hàng để giải quyết các vụ việc có liên quan đến vấn đề “Chia tài sản của nam nữ sống chung như vợ chồng” hoặc các dịch vụ khác liên quan như là tư vấn pháp lý ly hôn đơn phương mới nhất. Với kinh nghiệm nhiều năm trong ngành và đội ngũ chuyên gia pháp lý dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ hỗ trợ quý khách hàng tháo gỡ vướng mắc, không gặp bất kỳ trở ngại nào. Hãy liên lạc với số hotline 0833.102.102 để được trao đổi chi tiết, xúc tiến công việc diễn ra nhanh chóng, bảo mật, uy tín.
Câu hỏi thường gặp
Có thể thấy, việc sống chung với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn sẽ đồng nghĩa với việc hôn nhân của họ không được pháp luật bảo vệ. Đồng thời sẽ không làm phát sinh quan hệ quyền và nghĩa vụ như vợ chồng bình thường.
Căn cứ tại Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
Đối với quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.
Đối với quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn do các bên thỏa thuận giải quyết, trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định pháp luật. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người phụ nữ và con.
Căn cứ Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014, theo quy định như trên hành vi của người chưa có vợ chồng mà chung sống như vợ chồng với người đang có chồng và hành vi đã có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác là hành vi đã bị pháp luật nghiêm cấm.
Điều 45 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tịch thu tài sản như sau:
Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.
Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống.
Như vậy nếu có xác minh được những tài sản này có công sức đóng góp, tiền bạc của người bị kết án thì những tài sản này vẫn thuộc quyền sở hữu của người bị kết án và có thể bị tịch thu.