Bên cạnh hình thức thử việc thì hình thức học việc cũng là hình thức thường được sử dụng đối với những ngành nghề yêu cầu trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn cao. Hiện nay, trên thị trường lao động thường yêu cầu người lao động khi chưa có kinh nghiệm sẽ tham gia học việc trong khoảng thời gian từ 2-3 tháng. Đây là một khoảng thời gian khá dài. Những thắc mắc liên quan đến việc chi trả lương thưởng, đóng bảo hiểm xã hội, các khoản phúc lợi của người lao động trong thời gian này được rất nhiều người quan tâm. Vậy quy định pháp luật về hợp đồng học việc là gì? Chấm dứt hợp đồng học việc như thế nào? Mời bạn đón đọc bài viết ‘Chấm dứt hợp đồng học việc như thế nào? ” dưới đây của Luật sư X để có thêm những thông tin cần thiết.
Căn cứ pháp lý
Nguyên tắc giao kết hợp đồng học việc
Thứ nhất, nguyên tắc tự do, tự nguyện
Dưới góc độ pháp luật lao động, nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp đồng không ai bị cưỡng ép hoặc bị những hành vi cản trở trái với ý chí của mình.
Như chúng ta đã biết, ý chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí chủ quan bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của chủ thể. Chính vì vậy, sự thống nhất ý chí đó qua những điều khoản của nội dung hợp đồng là cơ sở quan trọng để xác định một hợp đồng phản ánh một cách khách quan, trung thực mong muốn, nguyện vọng của các bên chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Nguyên tắc tự do, tự nguyện thể hiện trong mặt chủ quan của người tham gia lập ước, nghĩa là khi tham gia giao kết, các chủ thể hoàn toàn tự do về mặt ý chí và tự nguyện về mặt lý trí. Theo đó, mọi hành vi lừa gạt, dụ dỗ, cưỡng bức…trong giao kết sẽ dẫn đến hợp đồng học nghề bị vô hiệu.
Tuy nhiên, trong thực tiễn xác lập quan hệ hợp đồng học nghề, nguyên tắc này biểu hiện rất đa dạng và phức tạp. Tính tự do, tự nguyện khi giao kết hợp đồng học nghề trong nhiều trường hợp thể hiện không rõ ràng và rất mơ hồ. Chẳng hạn khi ký kết hợp đồng học nghề, trên thực tế cơ sở đào tạo thường đưa ra bản hợp đồng mẫu với điều khoản đã được ấn định. Đối với người học nghề, nếu đồng ý thì ký vào bản hợp đồng, nếu không thì hợp đồng học nghề không được xác lập và sự bày tỏ ý chí để đi đến sự thỏa thuận thống nhất giữa hai bên đều không có. Có ý kiến cho rằng trong trường hợp này cơ sở đào tạo đã áp đặt quan hệ, vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện. Tuy nhiên, nhận thấy rằng, ở đây, cơ sở đào tạo nghề không bắt buộc người học nghề phải ký vào bản hợp đồng. Họ đưa ra bản hợp đồng để thể hiện trước nội dung và ý chí không thay đổi của mình. Quyết định cuối cùng có giao kết hợp đồng học nghề hay không? vẫn thuộc về người học nghề. Do đó, không thể nói rằng cơ sở đào tạo vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện. Mặc dù vậy, xét dưới góc độ ý chí và biểu lộ ý chí, cách tiến hành giao kết quan hệ như trên chưa phù hợp với bản chất của việc giao kết hợp đồng học nghề. Do nhu cầu cấp bách của công việc, người học nghề có thể vẫn ký hợp đồng học nghề trong trường hợp này mà trong đó có những nội dung họ chưa thấy phù hợp bởi họ không có lựa chọn nào khác.
Thứ hai, nguyên tắc bình đẳng
Nếu như nguyên tắc tự do, tự nguyện nói đến yếu tố chủ quan thì nguyên tắc bình đẳng nói lên tư cách pháp lý của các bên trong quá trình giao kết hợp đồng học nghề. Theo nguyên tắc này, cơ sở đào tạo nghề và người học nghề có sự ngang bằng về vị trí, tư cách, địa vị pháp lý và phương thức biểu đạt trong quan hệ giao kết hợp đồng học nghề. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên chủ thể khi tham gia các quan hệ phải bình đẳng với nhau, không ai được viện lý do khác biệt về hoàn cảnh kinh tế, thành phần xã hội, dân tộc, giới tính hay tôn giáo…để tạo ra sự bất bình đẳng trong giao kết hợp đồng. Bất cứ hành vi xử sự nào nhằm tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ thể giao kết đều được coi là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, trong giao kết hợp đồng học nghề sự bình đẳng chỉ diễn ra một cách tương đối. Bởi khi tham gia giao kết hợp đồng học nghề giữa các chủ thể đã thể hiện bất bình đẳng với nhau.
Cơ sở đào tạo nghề được coi là bên có quyền nhiều hơn vì họ đã bỏ công sức, tài chính để xây dựng trung tâm đào tạo nghề còn người học nghề là người đang muốn tìm, muốn học hỏi một nghề nào đó; Sau đó, dùng những kiến thức và kỹ năng thực hành nghề đã học được để tự tạo việc làm hoặc tìm việc làm có thu nhập nuôi sống bản thân. Mặt khác, người học nghề còn phụ thuộc vào ý chí của cơ sở dạy nghề rất nhiều bởi vì sau khi học xong, họ có được nhận vào làm tại cơ sở, doanh nghiệp đó không là một sự thỏa thuận được ghi trong hợp đồng học nghề. Sự không bình đẳng này xuất phát từ sự khác biệt về địa vị kinh tế, việc có được sự bình đẳng trong quan hệ học nghề là một điều rất khó khăn. Vì vậy, nguyên tắc bình đẳng trong hợp đồng học nghề được nhấn mạnh chủ yếu ở khía cạnh pháp lí của quan hệ.
Hình thức hợp đồng học việc
Hình thức của hợp đồng là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới dạng cách thức nhất định của các chủ thể hợp đồng. Thông qua cách thức biểu hiện này, người ta có thể biết được nội dung của giao kết đã xác lập. Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng, bởi đó là chứng cứ xác nhận các quan hệ dạy và học nghề đã và đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác định trách nhiệm khi có vi phạm xảy ra. Theo quy định của pháp luật, hình thức của hợp đồng có thể là lời nói hoặc bằng văn bản. Tuy nhiên, việc giao kết hợp đồng học nghề theo hình thức nào không phải là sự tùy liệu của các bên mà phải tuân theo quy định của pháp luật.
Theo Khoản 1 Điều 62 Bộ luật lao động 2019 có quy định, hợp đồng học nghề phải được ký kết bằng văn bản trong các trường hợp:
– Người lao động được đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, đào tạo lại ở trong nước hoặc ở nước ngoài;
– Bằng kinh phí của người sử dụng lao động; kể cả kinh phí do đối tác tài trợ cho người sử dụng lao động.
Hợp đồng này được lập thành hai bản, mỗi bên giữ một bản có giá trị pháp lý như nhau. Việc đưa ra hình thức bắt buộc trong những trường hợp trên là nhằm mục đích lưu ý các bên cần trọng khi giao kết hợp đồng học nghề và nhằm đảm bảo tính chi tiết cụ thể của việc tồn tại các quyền và nghĩa vụ của các bên. Đồng thời đây là bằng chứng rõ ràng nhất khi xảy ra tranh chấp về sau.
Hợp đồng bằng lời nói do các bên thống nhất thông qua sự thỏa thuận bằng ngôn ngữ mà không lập thành văn bản. Hợp đồng bằng lời nói chỉ được sử dụng trong một số trường hợp mà nội dung thỏa thuận đơn giản và thời hạn học nghề ngắn.
Có thể nói, hình thức hợp đồng được hiểu là sự thể hiện nội dung của hợp đồng và những thủ tục mà pháp luật quy định bắt buộc các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ khi ký kết một số loại hợp đồng nhất định. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng hình thức hợp đồng học nghề cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về thực hiện hợp đồng học nghề.
Chấm dứt hợp đồng học việc như thế nào?
Chấm dứt hợp đồng học nghề về thực chất là chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng đã giao kết. Việc chấm dứt hợp đồng học nghề thường dẫn tới chấm dứt tư cách chủ thể của hai bên trong quan hệ hợp đồng. Hợp đồng học nghề thể thể chấm dứt trong các trường hợp: hết hạn hợp đồng, khóa học kết thúc, người học nghề đi thực hiện nghĩa vụ quân sự, hai bên cùng thỏa thuận chấm dứt hợp đồng hoặc một trong hai bên đơn phương chấm dứt hợp đồng… Khi hợp đồng học nghề chấm dứt, cần phải giải quyết quyền lợi và trách nhiệm của hai bên.
Quyền lợi và trách nhiệm của hai bên được giải quyết như thế nào phụ thuộc chủ yếu vào việc chấm dứt hợp đồng học nghề hợp pháp hay trái pháp luật liên quan đến trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật nước ta chưa có quy định cụ thể về các điều kiện chấm dứt hợp đồng học nghề hợp pháp và cách giải quyết hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng học nghề trái pháp luật. Chỉ có hai vấn đề được quy định liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng học nghề, đó là: trách nhiệm của cơ sở dạy nghề trong việc hoàn trả tiền học phí cho người học nghề và trách nhiệm bồi hoàn chi phí dạy nghề của người học nghề cho cơ sở dạy nghề trong một số trường hợp nhất định.
Khuyến nghị
Luật sư X là đơn vị pháp lý đáng tin cậy, những năm qua luôn nhận được sự tin tưởng tuyệt đối của quý khách hàng. Với vấn đề Chấm dứt hợp đồng học việc như thế nào? chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn luật lao động Công ty Luật sư X luôn hỗ trợ mọi thắc mắc, loại bỏ các rủi ro pháp lý cho quý khách hàng.
Thông tin liên hệ
Luật sư X đã cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến vấn đề “Chấm dứt hợp đồng học việc như thế nào?” Ngoài ra, chúng tôi có hỗ trợ dịch vụ pháp lý khác liên quan đến dịch vụ chuyển đổi đất ao sang thổ cư,… Hãy nhấc máy lên và gọi cho chúng tôi qua số hotline 0833102102 để được đội ngũ Luật sư, luật gia giàu kinh nghiệm tư vấn, hỗ trợ, đưa ra giải đáp cho quý khách hàng.
Mời bạn xem thêm
- Nghỉ việc trong thời gian thử việc có cần viết đơn không?
- Nghỉ việc trong thời gian thử việc báo trước bao nhiêu ngày?
- Mẫu đơn xin nghỉ việc vì con nhỏ ốm
Câu hỏi thường gặp
Chấm dứt hợp đồng đào tạo nghề về thực chất là chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng đã giao kết.
Hợp đồng đào tạo nghề có thể chấm dứt trong các trường hợp sau:
Hết hạn hợp đồng
Khoá học kết thúc
Người học nghề đi thực hiện nghĩa vụ quân sự
Hai bên cùng thoả thuận chấm dứt hợp đồng hoặc một trong hai bên đơn phương chấm dứt hợp đồng…
Khi hợp đồng học nghề chấm dứt, cần phải giải quyết quyền lợi và trách nhiệm của hai bên. Quyền lợi và trách nhiệm của các
bên được giải quyết như thế nào phụ thuộc chủ yếu vào việc chấm dứt họp đồng đào tạo nghề hợp pháp hay trái pháp luật liên quan đến trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng. Về cơ bản chỉ có hai vấn đề
– Trách nhiệm của cơ sở dạy nghề trong việc hoàn trả tiền học phí cho người học nghề
– Trách nhiệm bồi hoàn chi phí dạy nghề của người học nghề
Bộ luật lao động 2019 có quy định như sau:
“Điều 62. Hợp đồng đào tạo nghề giữa người sử dụng lao động, NLĐ và chi phí đào tạo nghề
Hai bên phải ký kết hợp đồng đào tạo nghề trong trường hợp người lao động được đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, đào tạo lại ở trong nước hoặc nước ngoài từ kinh phí của người sử dụng lao động, kể cả kinh phí do đối tác tài trợ cho người sử dụng lao động.
Hợp đồng đào tạo nghề phải làm thành 02 bản, mỗi bên giữ 01 bản.
Hợp đồng đào tạo nghề phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Nghề đào tạo;
b) Địa điểm, thời gian và tiền lương trong thời gian đào tạo;
c) Thời hạn cam kết phải làm việc sau khi được đào tạo;
d) Chi phí đào tạo và trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo;
đ) Trách nhiệm của người sử dụng lao động;
e) Trách nhiệm của người lao động.
Chi phí đào tạo bao gồm các khoản chi có chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho người dạy, tài liệu học tập, trường, lớp, máy, thiết bị, vật liệu thực hành, các chi phí khác hỗ trợ cho người học và tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người học trong thời gian đi học. Trường hợp người lao động được gửi đi đào tạo ở nước ngoài thì chi phí đào tạo còn bao gồm chi phí đi lại, chi phí sinh hoạt trong thời gian đào tạo.”
Ngoài ra, Tại Điều 40 Bộ luật lao động 2019 cũng có quy định:
“Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
Không được trợ cấp thôi việc.
Phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
Phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.”
Theo đó, NLĐ chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật phải có nghĩa vụ hoàn trả chi phí đào tạo cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Bộ luật lao động 2019 không có quy định nào buộc NLĐ phải hoàn trả chi phí đào tạo khi chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tiễn NLĐ dù chấm dứt hợp đồng lao động theo đúng quy định pháp luật nhưng NLĐ vẫn phải hoàn trả chi phí đào tạo cho NSDLĐ nếu không giữ đúng cam kết trong hợp đồng đào tạo.
Trong trường hợp người lao động được đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, đào tạo lại ở trong nước hoặc nước ngoài từ kinh phí của người sử dụng lao động, kể cả kinh phí do đối tác tài trợ cho người sử dụng lao động thì bắt buộc phải ký hợp đồng đào tạo nghề.
Tuy nhiên, pháp luật không giới hạn thời gian ký hợp đồng đào tạo nghề mà thời gian này sẽ do người sử dụng lao động và người lao động thỏa thuận với nhau.