Theo Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) cho hộ gia đình và cá nhân đang sử dụng đất được giao không đúng thẩm quyền đang trở thành một vấn đề đáng quan ngại. Có ý kiến đề nghị nghiên cứu và cân nhắc kỹ lưỡng về tình trạng này, nhằm tránh tình trạng hợp thức hóa cho các sai phạm. Trong thời gian gần đây, việc cấp sổ đỏ cho các hộ gia đình và cá nhân đã và đang là một trong những vấn đề nóng bỏng của xã hội. Sổ đỏ không chỉ là một tài sản quan trọng của mỗi gia đình mà còn là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi và thể hiện quyền sở hữu đất đai của công dân. Tuy nhiên, việc cấp phát sổ đỏ không đúng thẩm quyền đang làm mất đi tính minh bạch, công bằng và làm giảm uy tín của cơ quan quản lý đất đai. Vậy theo quy định Có cấp sổ đỏ cho đất giao trái thẩm quyền hay không?
Căn cứ pháp lý
Hiểu thế nào về đất giao không đúng thẩm quyền?
Việc giao đất là một trong những quy trình quan trọng trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai tại Việt Nam. Đây là quyết định của Nhà nước để trao quyền sử dụng đất cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng đất, từ cá nhân, hộ gia đình đến các tổ chức, doanh nghiệp. Quá trình này được thực hiện dưới sự quản lý của các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền trong việc quản lý đất đai và được điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật.
Theo quy định của Khoản 1 Điều 23 Nghị định 43/2014/NĐ-CP, việc đất được giao không đúng thẩm quyền cho hộ gia đình và cá nhân đang là một vấn đề đáng quan ngại trong lĩnh vực quản lý đất đai tại Việt Nam. Điều này được hiểu là việc người đứng đầu điểm dân cư hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã giao đất không đúng thẩm quyền, hay tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng lại tự phân phối, bố trí cho cán bộ, công nhân viên, xã viên sử dụng.
Trong trường hợp đầu tiên, đất được giao không đúng thẩm quyền khi người đứng đầu điểm dân cư hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã không tuân thủ quy định của pháp luật về đất đai. Qua các thời kỳ pháp luật, từ Luật Đất đai năm 1987 cho đến các Luật Đất đai sau này như Luật Đất đai 1993, 2003, 2013,… UBND cấp huyện vẫn là cơ quan có thẩm quyền giao đất cho hộ gia đình, cá nhân. Do đó, nếu đất được giao không phải từ UBND cấp huyện, sẽ được xem là đất được giao không đúng thẩm quyền.
Trường hợp thứ hai là khi tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng tự phân phối, bố trí cho cán bộ, công nhân viên, xã viên sử dụng. Thực tế, việc này thường xuyên diễn ra và có nhiều đối tượng khác nhau, như các đơn vị quốc phòng, xí nghiệp, công ty, cơ sở giáo dục và đào tạo các cấp, bệnh viện, cơ quan và đơn vị khác. Tuy nhiên, những tổ chức này không có thẩm quyền giao đất nhưng vẫn tự quyết định việc sử dụng đất, gây ra tình trạng đất được giao không đúng thẩm quyền.
Vấn đề này đang gây ra nhiều hậu quả xấu, từ việc làm mất đi tính minh bạch, công bằng trong quản lý đất đai đến việc gây ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Do đó, cần có sự chấn chỉnh mạnh mẽ, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát để ngăn chặn và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm, đảm bảo rằng quá trình giao đất diễn ra đúng thẩm quyền, công bằng và minh bạch, từ đó tạo nên một môi trường pháp lý lành mạnh và thuận lợi cho phát triển bền vững của đất nước.
Có cấp sổ đỏ cho đất giao trái thẩm quyền hay không?
Việc giao đất phải tuân thủ quy định của pháp luật về đất đai, đảm bảo tính minh bạch, công bằng và hiệu quả. Cơ quan, đơn vị có thẩm quyền phải tiến hành xem xét, đánh giá nhu cầu sử dụng đất của đối tượng, đồng thời đảm bảo rằng việc giao đất không gây ra tranh chấp, mâu thuẫn giữa các bên liên quan.
Theo quy định của Nghị định 43/2014/NĐ-CP, đất giao trái thẩm quyền trước năm 2004 vẫn có thể được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng phải đáp ứng hai điều kiện chính là sử dụng đất ổn định và không có tranh chấp, đồng thời phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt. Điều này có ý nghĩa lớn trong việc bảo đảm tính minh bạch và công bằng trong việc quản lý đất đai, đồng thời đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất.
Trong việc thu tiền sử dụng đất phỉ nộp trong trường hợp được cấp sổ đỏ, Nghị định 45/2014/NĐ-CP đã quy định rất cụ thể. Đối với trường hợp sử dụng đất có nhà ở ổn định, có hai trường hợp cụ thể được xác định:
Trường hợp đầu tiên, đối với những người sử dụng đất có nhà ở từ trước ngày 15/10/1993 và có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền sử dụng đất theo đúng mức thu quy định của pháp luật đất đai năm 1993, thì không cần phải nộp tiền sử dụng đất thêm.
Trường hợp thứ hai, đối với những người sử dụng đất có nhà ở ổn định từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 và đã nộp tiền để sử dụng đất, thì số tiền sử dụng đất được xác định dựa trên chênh lệch giữa mức thu quy định và mức đã nộp trước đó.
Cụ thể, nếu số tiền đã nộp thấp hơn mức thu quy định của pháp luật đất đai năm 1993, thì số tiền đã nộp sẽ được quy đổi ra tỷ lệ % diện tích đã hoàn thành việc nộp tiền sử dụng đất theo chính sách và giá đất tại thời điểm đã nộp tiền. Phần diện tích đất còn lại sẽ thực hiện thu tiền sử dụng đất theo chính sách và giá đất tại thời điểm có quyết định công nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp ngược lại, khi đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 và không có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền để sử dụng đất, khi được cấp Giấy chứng nhận, số tiền sử dụng đất sẽ được xác định dựa trên tỷ lệ % diện tích đã sử dụng đất so với diện tích giao đất ở địa phương và giá đất quy định tại thời điểm có quyết định công nhận quyền sử dụng đất.
Như vậy, các quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất, đồng thời cũng đảm bảo tính minh bạch, công bằng và đúng đắn trong quản lý và sử dụng đất đai, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Đất trái thẩm quyền trước 2004 có được đền bù hay không?
Đối với cá nhân, hộ gia đình, quá trình giao đất thường được thực hiện thông qua các thủ tục hành chính, bao gồm việc nộp đơn đăng ký sử dụng đất, cung cấp các thông tin liên quan và đáp ứng các điều kiện quy định. Còn đối với các tổ chức, doanh nghiệp, quá trình này thường phức tạp hơn, có thể bao gồm việc lập dự án, xin phê duyệt quy hoạch sử dụng đất, và các thủ tục pháp lý khác.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 75 của Luật Đất đai 2013, việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất phải tuân thủ một số điều kiện cụ thể. Đầu tiên, đối tượng được bồi thường phải là hộ gia đình hoặc cá nhân đang sử dụng đất, không phải là đất thuê trả tiền hàng năm. Thứ hai, đối tượng này phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận theo quy định của Luật Đất đai, dù chưa nhận được.
Cụ thể hơn, việc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất có nguồn gốc được giao không đúng thẩm quyền trước năm 2004 đã được quy định chi tiết tại Điều 11 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Khoản 1 Điều 4 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP. Theo các trường hợp cụ thể sau:
Trường hợp đầu tiên, đất có nguồn gốc được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 15/10/1993 và có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền sử dụng đất đối với diện tích đất được giao mà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người đang sử dụng đất sẽ được bồi thường về đất đối với diện tích và loại đất được giao.
Trường hợp thứ hai, đất có nguồn gốc được giao không đúng thẩm quyền từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày 1/7/2004 và có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền sử dụng đất mà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc bồi thường sẽ được xác định như sau:
- Nếu có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất đối với diện tích đất được giao theo đúng mức thu quy định của pháp luật đất đai năm 1993, người đang sử dụng đất sẽ được bồi thường về đất đối với diện tích và loại đất được giao.
- Nếu có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất đối với diện tích đất được giao thấp hơn mức thu quy định của pháp luật đất đai năm 1993, người đang sử dụng đất sẽ được bồi thường về đất đối với diện tích và loại đất được giao, nhưng phải trừ đi số tiền sử dụng đất phải nộp (nếu có) khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp cuối cùng, đất có nguồn gốc được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 1/7/2004 nhưng không có giấy tờ chứng minh đã nộp tiền sử dụng đất, người đang sử dụng đất sẽ được bồi thường về đất đối với diện tích và loại đất được giao, nhưng phải trừ đi số tiền sử dụng đất phải nộp (nếu có) khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Như vậy, các quy định này nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của người dân khi Nhà nước thu hồi đất, đồng thời cũng đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong quá trình bồi thường đất.
Thông tin liên hệ:
Vấn đề “Có cấp sổ đỏ cho đất giao trái thẩm quyền hay không?” đã được Luật sư X giải đáp thắc mắc ở bên trên. Với hệ thống công ty Luật sư X chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý trên toàn quốc. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc của quý khách hàng liên quan tới tư vấn chế độ hưu trí đối với giáo viên. Với đội ngũ luật sư, chuyên viên, chuyên gia dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ giúp quý khách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí và ít đi lại. Chi tiết vui lòng liên hệ tới hotline: 0833102102
Mời bạn xem thêm bài viết:
- Thủ tục giải chấp sổ đỏ mất bao lâu thời gian?
- Thủ tục giải chấp sổ đỏ ngân hàng năm 2023
- Giải chấp sổ đỏ là gì theo quy định năm 2024?
Câu hỏi thường gặp
Căn cứ theo Khoản 3 Điều 97 Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai thì hành vi vi phạm quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất bao gồm các hành vi sau:
– Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất không đúng vị trí và diện tích đất trên thực địa;
– Giao đất, giao lại đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, không phù hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
– Giao lại đất, cho thuê đất trong khu công nghệ cao, khu kinh tế, cảng hàng không, sân bay dân dụng không phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Phòng Tài nguyên và Môi trường thực hiện các công việc sau:
– Hướng dẫn người xin giao đất, thuê đất thực hiện nghĩa vụ tài chính;
– Trình UBND cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất; ký hợp đồng thuê đất đối với trường hợp thuê đất;
– Trình UBND cấp huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
– Phòng Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo cập nhật, chỉnh lý cơ sở dữ liệu đất đai, hồ sơ địa chính