Xin chào Luật sư. Tôi là một người rất quan tâm đến các quy định của Luật hình sự. Hiện nay, pháp luật hình sự của Việt Nam đã và đang hoàn thiện hơn để những hành vi phạm tội phải được xử lý. Với mức độ phát triển như hiện nay, các loại tội phạm cũng ngày càng đa dạng với những thủ đoạn tinh vi hơn. Điều này gây ra rất nhiều ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Mặt khác, muốn khởi tố các vụ án hình sự, xử lý hành vi phạm tội phải đảm bảo các quy định của pháp luật. Theo như tôi tìm hiểu, căn cứ theo quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Điều này làm cho tôi có những thắc mắc rằng, tội phạm là gì? Các đặc điểm của tội phạm cụ thể ra sao? Căn cứ xác định dấu hiệu tội phạm theo quy định như thế nào? Hy vọng Luật sư sẽ giải đáp cho tôi. Xin cảm ơn Luật sư.
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho Luật sư. Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu vấn đề này qua bài viết sau đây nhé! Hy vọng bài viết sau đây sẽ thực sự hữu ích đối với bạn.
Căn cứ pháp lý
Tội phạm là gì?
Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự 2015, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật Hình sự phải bị xử lý hình sự.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
Các đặc điểm của tội phạm
Tội phạm, theo luật hình sự Việt Nam, phải là hành vi của con người. Những gì mới chỉ trong tư tưởng, chưa thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi thì không thể là tội phạm. Chỉ qua hành vi của mình, con người mới có thể gây ra thiệt hại, gây ra sự nguy hiểm cho xã hội và những gì trong ý nghĩ, trong tư tưởng của con người cũng chỉ có thể được xác định qua chính những biểu hiện bên ngoài mà trước hết là qua chính hành vi của họ. Trong luật hình sự Việt Nam, sự xác nhận tội phạm chỉ có thể là hành vi được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản. Đó là “nguyên tắc hành vi”.
Trước khi có BLHS đầu tiên, tuy chưa có định nghĩa hoàn chỉnh về khái niệm tội phạm trong luật nhưng cũng đã có nhiều định nghĩa tội phạm trong các sách báo pháp lí. Những định nghĩa này đều đã thể hiện được “nguyên tắc hành vi”.
Ví dụ: Trong cuốn Một sổ vấn đề pháp lí phổ thông Việt Nam (xuất bản năm 1963), tội phạm đã được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho những quan hệ XHCN, chống đối pháp luật, tội lỗi và phải chịu hình phạt (tr. 194).
Từ khi có BLHS đầu tiên (BLHS năm 1985), nguyên tắc này đã được chính thức thể hiện trong luật.
Theo nguyên tắc hành vi, luật hình sự Việt Nam không những không đặt vấn đề TNHS đối với tư tưởng của con người mà còn không đặt vấn đề TNHS đối với cả những biểu hiện của con người ra thế giới khách quan mà không phải là hành vi.
Theo luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm được phân biệt với những hành vi không phải là tội phạm qua các dấu hiệu: Nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong luật hình sự, do người có năng lực TNHS thực hiện và phải chịu hình phạt.
Đặc điểm nguy hiểm cho xã hội
Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Do có tính nguy hiểm cho xã hội nên hành vi được quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu hình phạt. Nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu về nội dung của tội phạm. Dấu hiệu này quy định dấu hiệu về hình thức của tội phạm là dấu hiệu được quy định trong luật hình sự. Những định nghĩa tội phạm có dấu hiệu nguy hiểm cho xã hội được gọi là định nghĩa tội phạm về nội dung. Trái lại, những định nghĩa tội phạm không có dấu hiệu này được gọi là định nghĩa tội phạm về hình thức.
Nguy hiểm cho xã hội bao gồm tính gây thiệt hại về khách quan và tính có lỗi về chủ quan. Trong đó, tính gây thiệt hại có nghĩa là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đó là:
“… độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,… quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,… những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật…” (khoản 1 Điều 8 BLHS).
Tính có lỗi tuy là bộ phận hợp thành của tính nguy hiểm cho xã hội nhưng để nhấn mạnh nguyên tắc có lỗi, BLHS Việt Nam đã tách tính có lỗi thành dấu hiệu độc lập. Do vậy, nội dung về tính có lỗi được trình bày ở phần tiếp theo.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thuộc tính khách quan. Một hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội hay không cũng như tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó ở mức độ nào hoàn toàn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan. Đó có thể là:
– Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại;
– Tính chất của hành vi khách quan, trong đó bao gồm cả thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện hành vi;
– Tính chất, mức độ thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra ;
– Tính chất, mức độ lồi;
– Tính chất của động cơ, mục đích phạm tội.
Đặc điểm có lỗi
Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi (có tính gây thiệt hại cho xã hội) của mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Người thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu họ đã lựa chọn và thực hiện trong khi họ có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác không gây thiệt hại cho xã hội.
Khi xác định “có lỗi” là một dấu hiệu của tội phạm cùng với dấu hiệu “nguy hiểm cho xã hội”, BLHS muốn nhấn mạnh nguyên tắc có lỗi. Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu TNHS chỉ căn cứ vào việc một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào lỗi của họ. Việc áp dụng hình phạt không chỉ nhằm mục đích trừng trị mà qua đó còn nhằm mục đích giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, phòng ngừa tội phạm xảy ra. Mục đích giáo dục này chỉ có thể đạt được khi hình phạt được áp dụng cho người có lỗi. Đối với người không có lỗi, hình phạt không thể phát huy được tác dụng giáo dục. Do vậy, “có lỗi” phải được xác định là một nguyên tắc của luật hình sự và cần được coi là một dấu hiệu quan trọng của tội phạm.
Đặc điểm được quy định trong luật hình sự
Theo Điều 8 BLHS, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu “… được quy định trong BLHS…”. Như vậy, tính được quy định trong luật hình sự là dấu hiệu đòi hỏi phải có ở hành vi bị coi là tội phạm. Việc xác định tội phạm phải được luật hình sự quy định là sự thừa nhận nguyên tắc đã được ghi nhận ttong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc:
“Không ai bị kết án vì một hành vi mà lúc họ thực hiện luật pháp quốc gia hay quốc tế không coi là tội phạm” (khoản 2 Điều 11).
Trong sự thống nhất với việc xoá bỏ nguyên tắc tương tự và cấm hồi tố, việc khẳng định dấu hiệu này của tội phạm là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế.
Trong BLHS, dấu hiệu “được quy định trong luật hình sự” không chỉ được thể hiện ở Điều 8 mà còn được thể hiện ở Điều 2 và Điều 7. Khoản 1 Điều 2 BLHS quy định: “Chi người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS… Khoản 2 Điều 7 quy định:
“Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vỉ áp dụng án treo, miễn TNHS, loại trừ TNHS, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đổi với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.
Việc xác định “được quy định trong luật hình sự” là dấu hiệu của tội phạm không những là cơ sở đảm bảo cho việc chổng tội phạm được thống nhất, tránh tuỳ tiện mà còn là động lực thúc đẩy cơ quan lập pháp phải kịp thời bổ sung, sửa đổi luật theo sát sự thay đổi của tình hình tội phạm. Tính được quy định trong luật hình sự tuy chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lí, phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu về mặt nội dung chính trị, xã hội của tội phạm nhưng vẫn có tính độc lập tương đối và có ý nghĩa quan trọng. Nếu chỉ coi trọng tính nguy hiểm cho xã hội sẽ dễ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện trong việc xác định tội phạm. Ngược lại, nếu quá coi trọng tính được quy định trong luật hình sự sẽ dễ dẫn đến tình trạng xác định tội phạm một cách hình thức, máy móc. Nhằm tránh những trường hợp như vậy, khoản 2 Điều 8 BLHS quy định:
“Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kế thì không phải là tội phạm…”.
Luật hình sự Việt Nam coi tính được quy định trong luật hình sự là dấu hiệu của tội phạm nhưng không phải là dấu hiệu duy nhất mà chỉ là dấu hiệu biểu hiện mặt hình thức pháp lí của tính nguy hiểm cho xã hội – dấu hiệu cơ bản của tội phạm. Hai dấu hiệu – tính nguy hiểm cho xã hội và tính được quy định ttong luật hình sự có quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức. Dấu hiệu được quy định trong luật hình sự tuy có tính độc lập tương đối nhưng vẫn là dấu hiệu được xác định bởi tính nguy hiểm cho xã hội. Chỉ trên cơ sở thừa nhận tính nguy hiểm cho xã hội, kết hợp tính nguy hiểm cho xã hội và tính được quy định trong luật hình sự mới có thể nhận thức được một cách đầy đủ dấu hiệu được quy định trong luật hình sự.
Hiện nay, theo quy định của BLHS, dấu hiệu “được quy định trong luật hình sự” phải được hiểu là “được quy định trong BLHS” mặc dù dấu hiệu “được quy định trong luật hình sự” có nghĩa rộng hơn vì luật hình sự bao gồm BLHS và các luật khác có quy phạm pháp luật hình sự.
Đặc điểm “do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện”
Đây là dấu hiệu về chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Theo đó, chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là người có năng lực TNHS. Đó là người đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của luật và không thuộc trường hợp mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi do mắc bệnh. Năng lực TNHS là năng lực pháp lí được Nhà nước xác định và thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Do có ý nghĩa như vậy nên dấu hiệu về chủ thể cần được coi là một dấu hiệu của tội phạm, mặc dù dấu hiệu này thực ra đã được phản ánh qua dấu hiệu được quy định trong luật hình sự vì ttong nội dung “được quy định” đã có nội dung về chủ thể về dẩu hiệu chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, BLHS năm 2015 còn xác định pháp nhân thương mại cũng là một chủ thể bên cạnh chủ thể “người có năng lực trách nhiệm hình sự”, về thực chất, pháp nhấn thương mại chỉ là chủ thể của TNHS đối với tội phạm do cá nhân thực hiện nhân danh và vì lợi ích của pháp nhân thương mại… như Điều 75 BLHS đã xác định. Theo đó, chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ có thể là cá nhân “Mọi hoạt động của pháp nhân được tiến hành (đều) thông qua hành vi của những cá nhân …”.
Tuy nhiên, khi pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện thì pháp nhân thương mại cũng có thể bị coi là đã thực hiện tội phạm và như vậy, pháp nhân thương mại cũng có thể bị coi là chủ thể thực hiện tội phạm.
Đặc điểm phải chịu hình phạt
Tính chịu hình phạt là dấu hiệu của tội phạm nhưng không phải là thuộc tính bên trong của tội phạm như các dấu hiệu trên. Do vậy, Điều 8 BLHS năm 1999 không đề cập dấu hiệu này trong định nghĩa tội phạm. Hành vi bị coi là tội phạm vì về nội dung, có tính nguy hiểm cho xã hội và về hình thức, được quy định trong luật hình sự chứ không phải vì có tính chịu hình phạt. Ngược lại, hành vi sở dĩ có tính chịu hình phạt vì là tội phạm – vì nguy hiểm cho xã hội và được quy định trong luật hình sự. Như vậy, tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của tính nguy hiểm cho xã hội và tính được quy định trong luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội vừa là cơ sở của việc phân hoá tính chịu hình phạt trong luật vừa là cơ sở để cá thể hoá hình phạt trong áp dụng luật hình sự. Tính chịu hình phạt được coi là dấu hiệu của tội phạm vì nó được xác định bởi chính những thuộc tính khách quan bên trong của tội phạm. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu biện pháp trách nhiệm là hình phạt; không có tội phạm thì cũng không có hình phạt. Đây là lí do để coi “phải chịu hình phạt” là một đặc điểm của tội phạm. BLHS năm 2015 bổ sung đặc điểm “phải bị xử lí hình sự” trong định nghĩa khái niệm tội phạm tại Điều 8 mà không sử dụng đặc điểm “phải chịu hình phạt” vì cho rằng biện pháp xử lí hình sự không chỉ là hình phạt mà còn gồm cả các biện pháp hình sự phi hình phạt. Tuy nhiên, hình phạt vẫn là biện pháp xử lí hình sự cơ bản có tính đặc trưng. Xét về bản chất, đặc điểm “phải bị xử lí hình sự” và đặc điểm “phải chịu hình phạt” không có sự khác nhau. Đặc điểm “phải bị xử lí hình sự” phản ánh bao quát hơn còn đặc điểm “phải chịu hình phạt” phản ánh được nội dung chính có tính đặc trưng, cụ thể của biện pháp hình sự.
Nói tội phạm có tính chịu hình phạt có nghĩa là bất cứ hành vi phạm tội nào, do tính nguy hiểm cho xã hội cũng đều bị đe dọa phải chịu hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước có tính nghiêm khắc nhất trong hệ thống những biện pháp cưỡng chế nhà nước. Nhưng điều đó không có nghĩa là việc áp dụng và thi hành trong thực tế hình phạt cụ thể là có tính chất bắt buộc tuyệt đối cho mọi trường hợp phạm tội. Trong thực tế vẫn có trường hợp người phạm tội không phải chịu hình phạt. Đó là những trường hợp có tội nhưng được miễn TNHS, được miễn hình phạt hoặc được miễn chấp hành hình phạt…
Vì có những trường hợp không phải chịu hình phạt như vậy nên có thể có ý kiến cho rằng không nên coi tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu của tội phạm. Quan niệm như vậy sẽ không thấy được mối liên hệ giữa tội phạm và hình phạt. Trong các hành vi của con người, chỉ có tội phạm là hành vi có thể bị áp dụng hình phạt. Có thể có tội mà không phải chịu hình phạt nhưng không thể áp dụng hình phạt khi không có tội. Nếu không coi tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu của tội phạm thì sẽ không thấy được hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất luôn gắn liền với tội phạm. Trong những trường hợp được miễn TNHS, được miễn hình phạt hoặc được miễn chấp hành hình phạt, người phạm tội tuy không phải chịu hình phạt nhưng không có nghĩa tội phạm mà họ thực hiện không có tính chịu hình phạt mà trái lại, khả năng đe dọa phải chịu hình phạt vẫn có. Người phạm tội không phải chịu hình phạt vì đã được miễn với những lí do khác nhau. Đó là những lí do đã được quy định trong các điều 29, 59, 62 và 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Như vậy, nói tội phạm có tính chịu hình phạt có nghĩa là bẩt cứ hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe dọa có thể phải chịu biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất là hình phạt.
Với việc thừa nhận TNHS của pháp nhân thương mại, tính chịu hình phạt không chỉ đối với chủ thể thực hiện tội phạm mà còn đối với cả pháp nhân thương mại khi pháp nhân thương mại có quan hệ nhất định với tội phạm và người phạm tội theo quy định của Điều 75 BLHS.
Căn cứ xác định dấu hiệu tội phạm
Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ: Tố giác của cá nhân; Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; Người phạm tội tự thú. Cụ thể là:
Việc tố giác của cá nhân: Cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. Việc tố giác được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua nhiều phương thức: Điện thoại, thư tín, tin nhắn… và có thể được thể hiện bằng lời hoặc bằng văn bản. Việc khởi tố vụ án hình sự căn cứ vào tố giác của cá nhân chỉ được thực hiện sau khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác điều tra, xác minh và xác định đã có sự việc phạm tội xảy ra đúng theo nội dung của tố giác.
Qua tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân: Thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền. Khi nhận được thông tin về tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành xác minh, điều tra. Nếu qua xác minh thấy vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có dấu hiệu của một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự thì sẽ ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Qua tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng như: Qua các cơ quan báo in, đài phát thanh, đài truyền hình,… Khi có được thông tin về tội phạm do các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành kiểm tra, xác minh để kết luận có dấu hiệu tội phạm hay không để làm căn cứ khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Thông qua các kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước: Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Đây là nguồn tin để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Thông qua cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm: Trong quá trình điều tra, xác minh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm và dùng đó làm căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện sự việc nào đó có dấu hiệu của tội phạm nhưng chưa được khởi tố.
Thông qua việc người phạm tội tự thú: Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình. Người phạm tội tự thú là người đã thực hiện hành vi phạm tội và sau đó tự ra thú nhận hành vi phạm tội trước các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Việc thú nhận hành vi phạm tội là cơ sở để đánh giá có thể có sự việc phạm tội xảy ra và khả năng người tự thú là người thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, lời khai của người phạm tội tự thú cũng là cơ sở quan trọng để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ khởi tố vụ án hình sự.
Mời bạn xem thêm bài viết
- Tội phá hoại cây trồng
- Người che giấu tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự nào?
- Phong tỏa tài sản trong vụ án hình sự
Khuyến nghị
Với đội ngũ nhân viên là các luật sư, luật gia và chuyên viên pháp lý của Luật sư X, chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý toàn diện về vấn đề luật hình sự đảm bảo chuyên môn và kinh nghiệm thực tế. Ngoài tư vấn online 24/7, chúng tôi có tư vấn trực tiếp tại các trụ sở Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bắc Giang.
Thông tin liên hệ
Vấn đề “Căn cứ xác định dấu hiệu tội phạm” đã được Luật sư X giải đáp thắc mắc ở bên trên. Với hệ thống công ty Luật sư X chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý trên toàn quốc. Chúng tôi sẽ giải đáp mọi thắc mắc của quý khách hàng liên quan tới tư vấn pháp lý vấn đề đất trồng cây lâu năm chuyển sang thổ cư. Với đội ngũ luật sư, chuyên viên, chuyên gia dày dặn kinh nghiệm, chúng tôi sẽ giúp quý khách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí và ít đi lại. Chi tiết vui lòng liên hệ tới hotline: 0833.102.102.
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
– Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
+ Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
+ Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;
+ Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật Hình sự quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
– Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017: “Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Như vậy, người không tố giác là người thân của người phạm tội (gồm ông, bà, bố, mẹ, con, cháu,…) sẽ chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người phạm tội thực hiện các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc các tội về xâm phạm an ninh quốc gia được quy định tại Chương XIII Bộ luật Hình sự.
Trong đó theo Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn. Mức cao nhất của khung hình phạt đối với loại tội phạm này là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình như:
– Tội giết người;
– Tội hiếp dâm;
– Tội cướp tài sản;
– Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản…
Căn cứ theo Điều 5 Thông tư 28/2020/TT-BCA, thủ tục tiếp nhận tố giác, tin báo tội phạm sẽ được thực hiện như sau:
Trường hợp trực tiếp tố giác, báo tin
Cá nhân trực tiếp đến tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp đến báo tin về tội phạm thì cán bộ tiếp nhận lập Biên bản tiếp nhận có chữ ký hoặc điểm chỉ của người tố giác, báo tin và hướng dẫn họ viết đơn trình báo (có thể ghi âm, ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận khi thấy cần thiết).
Nếu người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân thì vẫn phải tiến hành tiếp nhận theo trình tự, thủ tục và ghi rõ lý do từ chối vào biên bản.
Trường hợp tố giác, báo tin bằng văn bản
Cá nhân, đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp đến gửi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố bằng văn bản thì cán bộ tiếp nhận viết Giấy biên nhận (02 bản), một bản kèm theo tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, một bản giao cho người gửi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Với đơn, thư hoặc các hình thức văn bản khác, không ghi rõ tên tuổi, địa chỉ, không có chữ ký trực tiếp hoặc điểm chỉ của người tố giác, báo tin hoặc của người gửi đơn, thư nhưng có nội dung rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có tài liệu, chứng cứ cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật và có cơ sở để kiểm tra, xác minh, thì cán bộ tiếp nhận vẫn tiến hành tiếp nhận, phân loại, xử lý theo quy định.
Trường hợp tố giác, báo tin qua điện thoại
Với trường hợp này, cán bộ tiếp nhận sẽ yêu cầu đầy đủ các thông tin sau:
– Thời gian tiếp nhận thông tin, họ tên cán bộ tiếp nhận; họ tên, địa chỉ, số điện thoại, số chứng minh nhân dân (hoặc căn cước công dân), ngày, tháng, năm, đơn vị cấp của người tố giác, báo tin;
– Thời gian, địa điểm xảy ra vụ việc;
– Tóm tắt nội dung, diễn biến vụ việc;
– Các thông tin khác có liên quan (nếu có) như: họ tên, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng của đối tượng, người làm chứng, bị hại, hướng bỏ trốn của đối tượng, công cụ, phương tiện phạm tội, hậu quả thiệt hại, những việc đã làm tại hiện trường khi phát hiện vụ việc …;
– Lý do người tố giác, báo tin biết được vụ việc đó, những ai cùng biết vụ việc đó;
Nếu người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân thì cán bộ tiếp nhận vẫn phải tiến hành tiếp nhận và ghi rõ lý do từ chối;
Các thông tin này sẽ được cán bộ tiếp nhận ghi chép vào sổ tiếp nhận và viết thành văn bản báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để xử lý.
Trường hợp tiếp nhận thông tin qua phương tiện thông tin đại chúng
Đối với trường hợp này, cán bộ được phân công phải tiếp nhận bằng cách sao chụp, ghi chép hoặc in bài viết ra giấy báo cáo lãnh đạo, chỉ huy để xử lý; đối với tin báo về tội phạm đã xác định được dấu hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan, đơn vị nào thì cơ quan, đơn vị đó ghi nhận và giải quyết.
Nếu chưa xác định được nơi xảy ra sự việc hoặc liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mà tin báo về tội phạm phản ánh thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện nơi có trụ sở chính của phương tiện thông tin đại chúng (nơi có địa chỉ rõ ràng) đã đăng tải tin báo trên có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý ban đầu.