Phẩm chất con người là điều quý giá và quan trọng hơn vẻ đẹp bên ngoài. Để tạo được sự uy tín của mình trong mắt người khác, chúng ta luôn phải cố gắng xây dựng hình ảnh của mình. Đó không chỉ là uy tín mà là danh dự, nhân phẩm của chúng ta. Có thể nói, danh dự, nhân phẩm của chúng ta rất quan trọng, cần được tôn trọng và bảo vệ. Pháp luật cũng có những quy định nhằm mục đích bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người. Danh dự, nhân phẩm của mỗi người là bất khả xâm phạm, đây cũng là quyền cơ bản của công dân. Mọi hành vi xâm phạm đều bị xử lý thật nghiêm minh. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết hết, những hành vi như thế nào mới được xem là tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm con người. Các tội xâm phạm nhân phẩm danh dự của con người là gì? Hãy cùng Luật sư X tìm hiểu câu trả lời qua bài viết sau đây nhé!
Căn cứ pháp lý
Nhân phẩm là gì?
Nhân phẩm là toàn bộ phẩm chất mà mỗi con người có được, hay nói cách khác nhân phẩm chính là giá trị làm người của mỗi con người.
Khi nói đến một người có nhân phẩm thì người đó phải có lương tâm trong sáng và có những nhu cầu về tinh thần, vật chất lành mạnh; thực hiện tốt các nghĩa vụ về đạo đức với người khác và đối với xã hội; thực hiện tốt những chuẩn mực đạo đức tiến bộ.
Những người có nhân phẩm sẽ được xã hội đánh giá cao và kính trọng. Từ đó thấy được rằng nhân phẩm của mỗi cá nhân có vai trò rất quan trọng, là giá trị phản ánh và tạo nên giá trị cốt cách riêng của mỗi con người.
Để trở thành người có nhân phẩm, con người cần phải có cách yếu tố sau:
- Có lương tâm trong sáng.
- Nhu cầu vật chất và tinh thần lành mạnh.
- Thực hiện tốt nghĩa vụ đạo đức.
- Thực hiện tốt chuẩn mực đạo đức.
- Tôn trọng nhân phẩm của chính mình cũng như của mọi người xung quanh.
Trong cuộc sống, đa số mọi người đều ý thức quan tâm giữ gìn nhân phẩm của mình nhưng vẫn có những kẻ coi thường nhân phẩm của chính mình, của người khác, có suy nghĩ và hành vi đi ngược lại với lợi ích của cộng đồng.
Danh dự là gì?
Danh dự là sự coi trọng, đánh giá cao của dư luận xã hội đối với một người dựa trên các giá trị tinh thần, đạo đức của người đó
Khi con người tạo ra được cho mình những giá trị tinh thần, đạo đức và những giá trị đó được xã hội đánh giá, công nhận thì người đó có danh dự
Danh dự có cơ sở từ những cống hiến thực tế của con người đối với xã hội, với người khác. Là con người, ai cũng đóng góp ít nhiều cho cuộc sống, cho xã hội, do đó, ai cũng có danh dự. Tuy nhiên, mỗi chúng ta phải luôn giữ gìn và bảo vệ danh dự của mình và tôn trọng danh dự của người khác. Khi chúng ta biết giữ gìn danh dự của mình, của các cá nhân có được một sức mạnh tinh thần để làm điều tốt, hướng chúng ta đến điều thiện và tránh xa các điều xấu.
Nhân phẩm và danh dự có mối quan hệ như thế nào?
Danh dự là sự coi trọng, đánh giá cao của dư luận xã hội đối với một người dựa trên các giá trị tinh thần, đạo đức của người đó
Khi con người tạo ra được cho mình những giá trị tinh thần, đạo đức và những giá trị đó được xã hội đánh giá, công nhận thì người đó có danh dự
Danh dự có cơ sở từ những cống hiến thực tế của con người đối với xã hội, với người khác. Là con người, ai cũng đóng góp ít nhiều cho cuộc sống, cho xã hội, do đó, ai cũng có danh dự. Tuy nhiên, mỗi chúng ta phải luôn giữ gìn và bảo vệ danh dự của mình và tôn trọng danh dự của người khác. Khi chúng ta biết giữ gìn danh dự của mình, của các cá nhân có được một sức mạnh tinh thần để làm điều tốt, hướng chúng ta đến điều thiện và tránh xa các điều xấu.
Nhân phẩm là giá trị làm người, còn danh dự là kết quả của quá trình xây dựng và bảo vệ nhân phẩm.
Mỗi con người có danh dự không chỉ biết giữ gìn nhân phẩm của bản thân mà còn phải biết làm nhân phẩm của mình được xã hội công nhận thông qua hành động cống hiến không mệt mỏi cá nhân cho xã hội.
Khi biết giữ gìn danh dự của mình, các cá nhân có được một sức mạnh tinh thần để làm điều tốt và không làm điều xấu. Đó chính là ý nghĩa quan trọng của danh dự.
Tiền, bạc mất đi có thể tìm lại được nhưng một khi chúng ta đánh mất nhân phẩm và danh dự là mất đi phẩm chất và giá trị làm người. Đó là yếu tố tạo nên giá trị của một con người. Vì vậy, chúng ta hãy sống, học tập và làm việc cho thật tốt. Sống không có nghĩa là chỉ biết nghĩ cho mình, mà hãy vì người khác. Bởi lẽ, chúng ta chỉ thật sự hạnh phúc khi biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác.
Danh dự và nhân phẩm là quyền của mỗi người, được pháp luật công nhận và bảo vệ, điều này được thể hiện nhiều trong nhiều quy định pháp luật khác nhau, từ đạo luật cao nhất là hiến pháp cho đến các quy định pháp luật chuyên ngành.
– Trên thực tế danh dự và nhân phẩm có mỗi quan hệ khăng khít với nhau và tạo nên giá trị của mỗi con người. Nhân phẩm chính là toàn bộ những phẩm chất của một con người còn danh dự chính là sự coi trọng, đánh giá của dư luận xã hội với một con người trên cơ sở giá trị đạo đức tinh thần của người đó.
– Từ đó có thể hiểu nhân phẩm chính là giá trị làm người của một con người còn danh dự chính là kết quả của quá trình xây dựng, bảo vệ nhân phẩm của một con người.
– Nếu cá nhân biết bảo vệ và giữ gìn danh dự, nhân phẩm của mình thì sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần để cá nhân đó có thể làm những điều tốt trong cuộc sống.
– Khi cá nhân đánh mất danh dự, nhân phẩm của mình thì đồng nghĩa với việc là người đó mất đi phẩm chất và giá trị làm người bởi vì đây là hai yếu tố tạo nên giá trị của một con người.
– Danh dự, nhân phẩm của mỗi con người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Điều này được thể hiện cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như hiến pháp và các quy định của pháp luật chuyên ngành.
Cụ thể tại Điều 20 của Hiến pháp năm 2013 có quy định cụ thể như sau: Mọi người đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Không được tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh sự, nhân phẩm của người khác.
Khi một người có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác tùy theo mức độ hành vi vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính thậm chí là xử lý hình sự theo quy định.
Thế nào là hành vi xâm phạm danh dự nhân phẩm con người?
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm là một trong những quyền nhân thân, tức là gắn liền với mỗi cá nhân và không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Quyền này được quy định cụ thể tại Điều 34 Bộ luật dân sự 2015, cụ thể như sau:
Điều 34. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.
4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.
5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.
Hiện tại pháp luật chưa cho một định nghĩa chính thức, cụ thể nào về danh dự, nhân phẩm và hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm của con người. Tuy nhiên, có hiểu: Hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm là dùng những lời lẽ thô bỉ, tục tĩu đế nhục mạ nhằm hạ uy tín gây thiệt hại về danh dự, nhân phẩm cho người khác.
Các tội xâm phạm nhân phẩm danh dự của con người
Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người là những hành vi được quy định tại các điều từ Điều 141 đến Điều 147 và từ Điều 150 đến Điều 156 Bộ Luật Hình sự 2015, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quyền được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự của người khác.
Các tội phạm cụ thể xâm phạm nhân phẩn, danh dự bao gồm: Tội hiếp dâm (Điều 141); Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); Tội cưỡng dâm (Điều 143); Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146); Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); Tội mua bán người (Điều 150); Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151); Tội đánh tráo người dưới 01 tuổi (Điều 152); Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153); Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người 154); Tội làm nhục người khác (Điều 155); Tội vu khống (Điều 156). Trong đó:
Tội hiếp dâm (Điều 111 – Bộ luật hình sự): là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ.
Chủ thể trong xét xử thực tiễn là nam giới, nữ giới chỉ tham gia với vai trò là người đồng phạm như người tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức.
Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 – Bộ luật hình sự): là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của nạn nhân hoặc hành vi giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi.
Tội cưỡng dâm (Điều 113 – Bộ luật hình sự): là hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình (lệ thuộc có thể về kinh tế, về công tác,…) hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu.
Trường hợp một người dùng thủ đoạn dụ dỗ, hứa hẹn khiến người phụ nữ lệ thuộc hoặc trong tình trạng quẫn bách thuận tình giao cấu thì hành vi không cấu thành tội này.
Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 – Bộ luật hình sự): là hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi lệ thuộc mình hoặc đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu.
Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115 – Bộ luật hình sự 2015): là hành vi của người đã thành niên giao cấu thuận tình với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Đây là trường hợp hành vi giao cấu có sự đồng ý, chấp nhận của nạn nhân mặc dù người phạm tội không có bất kỳ thủ đoạn nào để ép buộc khống chế. Trường hợp chủ thể dùng tiền hoặc tài sản để trao đổi lấy việc giao cấu thuận tình với nạn nhân thì không cấu thành tội này.
Tội dâm ô với trẻ em (Điều 116 – Bộ luật hình sự): là những hành vi có tính chất kích thích tình dục chứ không có mục đích giao cấu nạn nhân. Chủ thể của tội phạm trong tội này là người đã thành niên.
Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 117 – Bộ luật hình sự): là hành vi cố ý lây truyền bệnh cho người khác của người biết mình bị nhiễm HIV. Hành vi này có thể được thực hiện bằng bất kỳ phương thức nào như dùng chung kim tiêm, quan hệ tình dục,…
Tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 118 – Bộ luật hình sự): là hành vi cố ý truyền HIV cho người khác nhưng không thuộc trường hợp quy định tại Điều 117 – Bộ luật hình sự. Nguồn gây bệnh trong trường hợp này không phải là từ tình trạng mắc bệnh của chủ thể. (Ví dụ: Bác sỹ truyền máu mà biết là bị nhiễm HIV cho bệnh nhân).
Tội mua bán người (Điều 119 – Bộ luật hình sự mới nhất): là hành vi dùng tài sản để trao đổi con người như một thứ hàng hóa. Hành vi này có thể được thực hiện khi có hoặc không có sự đồng ý của người bị mua bán. Đối tượng tác động của tội phạm là con người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120 – Bộ luật hình sự): Đối tượng tác động của tội phạm là trẻ em dưới 16 tuổi
– Hành vi mua bán trẻ em được hiểu tương tự như hành vi mua bán người.
– Hành vi đánh tráo trẻ em là hành vi tráo đổi trẻ em này bằng trẻ em khác một cách bất hợp pháp bằng bất kỳ thủ đoạn nào.
– Hành vi chiếm đoạt trẻ em là hành vi dùng bất kỳ thủ đoạn nào tách đứa trẻ ra khỏi sự quản lý của cha mẹ hoặc người quản lý hợp pháp để bản thân chủ thể hoặc người khác thực hiện được quyền quản lý với đứa trẻ.
Tội làm nhục người khác (Điều 121 – Bộ luật hình sự): là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Việc đánh giá mức độ xúc phạm có nghiêm trọng hay không phải căn cứ vào thái độ, nhận thức của người phạm tội; cường độ và thời gian kéo dài của hành vi xúc phạm; vị trí và môi trường xung quanh; vị trí, vai trò, uy tín của người bị hại trong gia đình, tổ chức hoặc trong xã hội, dư luận xã hội.
Tội vu khống (Điều 122 – Bộ luật hình sự): là hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
Mời bạn xem thêm bài viết
- Chủ thể của các tội xâm phạm an ninh quốc gia
- Dự báo tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trong thời gian tới
- Tội phạm xâm phạm an toàn giao thông
Thông tin liên hệ
Vấn đề “Các tội xâm phạm nhân phẩm danh dự của con người là gì?” đã được chúng tôi cung cấp qua thông tin bài viết trên. Luật sư X luôn có sự hỗ trợ nhiệt tình từ các chuyên viên tư vấn pháp lý, quý khách hàng có vướng mắc hoặc nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý liên quan như là dịch vụ tạm dừng công ty vui lòng liên hệ đến hotline 0833.102.102. Chúng tôi sẽ giải quyết các khúc mắc của khách hàng, làm các dịch vụ một cách nhanh chóng, dễ dàng, thuận tiện.
- FaceBook: www.facebook.com/luatsux
- Tiktok: https://www.tiktok.com/@luatsux
- Youtube: https://www.youtube.com/Luatsux
Câu hỏi thường gặp
– Khách thể của tội phạm:
Khách thể của nhóm tội phạm này là các quan hệ xã hội bảo đảm, bảo vệ tự do, nhân phẩm và danh dự của con người, của công dân.
Tự do, nhân phẩm và danh dự của con người, của công dân là những yếu tố về tình thần, bao gồm giá trị, nhân phẩm, sự tôn trọng, tình cảm yêu mến của những người xung quanh, của xã hội đối với người đó. Các hành vi xâm phạm tự do, nhân phẩm, danh dự của con người làm cho người đó bị tổn thương về các giá
trị, phẩm giá và các giá trị tinh thần khác. Pháp luật hình sự có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ các giá trị tinh thần nói trên của con người.
Khách thể trực tiếp của các tội phạm thuộc nhóm này là các quan hệ bảo đảm, bảo vệ các giá trị tự do, nhân phẩm và danh dự của người bị hại cụ thể.
– Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của các tội phạm thuộc nhóm này có đặc điểm chung là hành vi phạm tội ở các tội phạm đều được thể hiện dưới dạng hành động phạm tội. Tất cả các cấu thành tội phạm thuộc nhóm này đều có cấu thành tội phạm hình thức. Các tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm thực hiện hành động phạm tội. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
– Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của nhóm tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật quy định.
– Mặt chủ quan của tội phạm:
Mặt chủ quan của nhóm tội phạm này đều có một đặc điểm chung là các tội phạm đó được thực hiện do lỗi cố ý. Động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc của các cấu thành tội phạm.
Những hành vi xúc phạm người khác mang tính chất nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác tại Điều 155 Bộ luật hình sự.
Điều 155. Tội làm nhục người khác
“1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Đối với người đang thi hành công vụ;
đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Làm nạn nhân tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Căn cứ vào Điều 591 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
Điều 592. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.