“Đơn bãi nãi”, cụm từ không quá xa lạ trong các vụ án hình sự. Trong mối quan hệ giữa nhà nước pháp luật và tội phạm, thì các hành vi như cố ý gây thương tích, đe dọa giết người, giết người, hiếp dâm,… người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự bởi hành vi của mình gây ra. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp, các bên có thể thỏa thuận, thương lượng về mức bồi thường hoặc hòa giải với nhau. Người bị hại hoặc đại diện của bị hại theo pháp luật có thể làm đơn bãi nãi nhằm mục đích xin giảm nhẹ hình phạt đối với người phạm tội. Vậy Bị hại có đơn bãi nãi thì vụ án hình sự có bị tiếp tục khởi tố không? Bị hại có đơn xin bãi nại là được miễn trách nhiệm hình sự đúng không? Xin được giải đáp.
Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi. Để có thể cung cấp cho bạn thông tin về Bị hại có đơn bãi nãi thì vụ án hình sự có bị tiếp tục khởi tố không? LuatsuX mời bạn cùng đón đọc bài viết dưới đây của chúng tôi.
Căn cứ pháp lý
Đơn xin bãi nại là gì ?
- Hiện nay, pháp luật không quy định đơn bãi nại là gì. Tuy nhiên, qua các hoạt động pháp lý, ta có thể, có định nghĩa về bãi nại như sau:
”Đơn bãi nại là một loại đơn của người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại là người dưới 18 tuổi, người bị hại có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc người bị hại đã chết với nội dung: rút lại yêu cầu khởi kiện vụ án hình sự, nghĩa là không còn tiếp tục khởi kiện nữa.“
Những trường hợp phía bị hại có thể làm đơn xin bãi nại
- Đơn bãi nại không được quy định trực tiếp trong nội dung của các Bộ luật tố tụng hình sự; một cách rõ ràng mà được ngầm hiểu là hành vi người yêu cầu khởi tố vụ án hình sự làm đơn rút yêu cầu khởi tố. Theo đó, tại điều 155 Bộ Luật tố tụng hình sự; quy định về các trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại như sau:
1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139; 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự; khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi; người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì phải đình chỉ vụ án; trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố; trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố; thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
- Theo đó, ta có thể hiểu, chỉ khi người bị khởi tố, thuộc trường hợp bị khởi tố theo yêu cầu của bị đơn; thì bên phía người bị hại mới có thể tiến hành làm đơn bãi nại; không truy cứu trách nhiệm hình sự của người đã bị khởi tố, sau khi có đơn.
Bị hại có đơn bãi nãi thì vụ án hình sự có bị tiếp tục khởi tố không?
- Tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bởi Khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2021 quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau:
1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
- Nếu bạn bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 thì khi bị hại có đơn bãi nại không trái với ý muốn của bị hại do bị ép buộc, cưỡng bức thì vụ án hình sự sẽ được đình chỉ, do đó vụ án hình sự sẽ không tiếp tục bị khởi tố.
Vụ án hình sự không được khởi tố dựa vào các căn cứ nào?
- Tại Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bởi Khoản 4 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2021 quy định về căn cứ không khởi tố vụ án hình sự như sau:
1. Không có sự việc phạm tội;
2. Hành vi không cấu thành tội phạm;
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
6. Tội phạm đã được đại xá;
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
- Theo đó, ngoài trường hợp bị hại có đơn bãi nại thì nếu con bạn thuộc các trường hợp như được nêu trên thì vụ án hình sự của con bạn sẽ không bị khởi tố.
Bị hại có đơn xin bãi nại là được miễn trách nhiệm hình sự đúng không ?
- Người bị khởi tố, chỉ có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi; thuộc trường hợp bị khởi tố theo yêu cầu của người bị hại; cụ thể bao gồm những tội như: cố ý gây thương tích; vô ý gây tổn hại cho sức khỏe người khác, hiếp dâm; cưỡng dâm, vu khống… Tuy nhiên, không phải trường hợp nào khi có đơn xin bãi nại từ phía người bị hại cũng được miễn trách nhiệm hình sự.
- Tại khoản 2 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định như sau:
2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ; trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ; do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
- Theo đó, trong trường hợp có căn cứ xác định, việc phía người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố; do bị cưỡng ép, thì phía cơ quan tiến hành tố tụng; vẫn tiếp tục tiến hành việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Những trường hợp, không phải khởi tố theo yêu cầu của bị đơn; tại khoản 1 điều 155 Bộ luật hình sự, thì việc người bị hại có đơn xin bãi nại; không phải là cơ sở để miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong trường hợp này, có thể được tòa án xem xét; coi là một tình tiết giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự của người bị khởi tố theo quy định.
Mời bạn xem thêm
- Xử dưới khung hình phạt được quy định như thế nào?
- Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
- Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự
Thông tin liên hệ
Trên đây là tư vấn của Luật sư X về “Bị hại có đơn bãi nãi thì vụ án hình sự có bị tiếp tục khởi tố không?” Chúng tôi hi vọng bạn có thể vận dụng kiến thức trên. để sử dụng trong công việc và cuộc sống.
Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn; giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến bảo hộ logo độc quyền, đăng ký bảo vệ thương hiệu hoặc các dịch vụ khác như giải thể công ty, giải thể công ty tnhh 1 thành viên, tạm dừng công ty; mẫu đơn xin giải thể công ty, mẫu đơn xin tạm ngừng kinh doanh, đối tượng được cấp hộ chiếu ngoại giao…. của Luật sư X, hãy liên hệ: 0833102102.
Câu hỏi thường gặp
Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 quy định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
…
Khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:
1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
– Như vậy, khi gây thương tích 21% thì rơi vào khoản 1 của Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017, trường hợp này không khởi tố nếu có đơn bãi nại của bị hại.
Khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017 có quy định:
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Đình chỉ điều tra theo Điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
1. Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự;
b) Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.
2. Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và những vấn đề khác có liên quan.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố theo thời hạn, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật này.
– Như vậy, trường hợp nếu thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng và bạn của bạn đã tự nguyện bồi thường, gia đình nạn nhân có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự thì đây là căn cứ có thể xét miễn trách nhiệm hình sự cho bị can trong quá trình điều tra. Theo đó, cơ quan cảnh sát điều tra có thể áp dụng Khoản 3 Điều 29 Bộ Luật hình sự 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự để đình chỉ điều tra.
Tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, có quy định về các tội mà bị hại có quyền rút đơn khởi tố, bao gồm:
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
-Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
-Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
-Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
– Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
– Và các Tội hiếp dâm. Tội cưỡng dâm. Tội làm nhục người khác. Tội vu khống. Tội xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp.
Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Như vậy, theo quy định trên thì tội hiếp dâm là một trong những tội khởi tố theo yêu cầu của bị hại, nếu bị hạị rút đơn bãi nại thì vụ án sẽ được đình chỉ. Việc rút đơn bãi nại phải hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc hay cưỡng bức nào.