Bãi nại là một thuật ngữ pháp lý trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt trong các vụ án hình sự. Bãi nại xảy ra khi người bị hại (người bị thương hoặc chịu thiệt hại từ hành vi phạm tội) rút lại đơn tố cáo hoặc yêu cầu truy tố đối với bị can hoặc bị cáo trong vụ án hình sự. Khi người bị hại bãi nại, việc này có thể ảnh hưởng đến quyết định của cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát. Khi đó, nhiều người băn khoăn không biết liệu căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành, Bãi nại có đi tù không? Quý độc giả hãy cùng Luật sư X làm rõ qua nội dung sau đây nhé.
Bãi nại có đi tù không?
Bãi nại thường liên quan đến việc người bị hại rút lại yêu cầu khởi kiện hoặc tố cáo. Khi người bị hại không còn yêu cầu tiếp tục truy tố, họ sẽ làm đơn bãi nại gửi đến cơ quan có thẩm quyền. Bãi nại không áp dụng cho tất cả các loại tội phạm. Trong một số trường hợp, bãi nại có thể dẫn đến việc đình chỉ vụ án hoặc giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nếu đó là điều kiện theo quy định của pháp luật.
Đầu tiên, có thể hiểu bãi nại là việc người có yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút lại yêu cầu khởi tố.
Căn cứ theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2021 quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại cụ thể như sau:
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại
1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Như vậy, theo quy định thì nếu người khởi kiện đã có đơn bãi nại thì người bị khởi kiện sẽ không phải đi tù nếu thuộc một trong những trường hợp tại khoản 1 của một số tội quy định tại các Điều sau đây:
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015).
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015).
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015).
– Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 138 Bộ luật Hình sự 2015).
– Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 139 Bộ luật Hình sự 2015).
– Tội hiếp dâm (Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015).
– Tội cưỡng dâm (Điều 143 Bộ luật Hình sự 2015).
– Tội làm nhục người khác (Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015).
– Tội vu khống (Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015).
Lưu ý: Đơn bãi nại phải do người bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Đồng thời, việc có đơn bãi nại phải hoàn toàn tự nguyện, không có dấu hiệu ép buộc hay cưỡng bức.
Không có đơn bãi nại thì người phạm tội có được hoãn chấp hành hình phạt tù không?
Bãi nại là quyền của người bị hại và thể hiện sự tự nguyện của họ trong việc không yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này bảo đảm rằng quyền lợi của người bị hại được tôn trọng trong quá trình tố tụng. Đây là một công cụ quan trọng trong hệ thống pháp lý để bảo vệ quyền lợi của người bị hại và điều chỉnh quy trình tố tụng hình sự theo hướng linh hoạt và công bằng.
Theo quy định tại Điều 67 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về việc hoãn chấp hành hình phạt tù cụ thể như sau:
Hoãn chấp hành hình phạt tù
1. Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:
a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;
b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;
c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.
2. Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
Như vậy, căn cứ theo quy định trên mặc dù không có đơn bãi nại thì người phạm tội vẫn được hoãn chấp hành hình phạt tù khi thuộc các trường hợp sau đây:
– Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục.
– Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.
– Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm.
Trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
– Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.
>> Xem ngay: thời hạn gia hạn quyền sử dụng đất
Đơn bãi nại có được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không?
Bãi nại không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn thể hiện sự linh hoạt và tính nhân đạo trong hệ thống pháp luật, tạo điều kiện cho sự hòa giải và điều chỉnh hình phạt một cách công bằng và hợp lý. Trong nhiều trường hợp, việc bãi nại có thể giúp các bên đạt được thỏa thuận và hòa giải, từ đó làm giảm gánh nặng cho hệ thống pháp lý và tạo điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục quan hệ giữa các bên.
Căn cứ theo Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bởi điểm a, b khoản 6 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
…
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Như vậy, theo quy định trên thì người bị phạt tù có đơn bãi nại có thể được Tòa án xem xét coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và sẽ phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
Mời bạn xem thêm:
- Thủ tục xin chuyển đổi mục đích sử dụng đất
- Chi phí chuyển đổi mục đích sử dụng đất
- Quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu bị hạn chế khi nào?
Thông tin liên hệ
Luật sư X đã cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến vấn đề “Mẫu giấy ủy quyền viết tay”. Ngoài ra, chúng tôi có hỗ trợ dịch vụ pháp lý khác, hãy nhấc máy lên và gọi cho chúng tôi qua số hotline 0833.102.102 để được đội ngũ Luật sư, luật gia giàu kinh nghiệm tư vấn, hỗ trợ, đưa ra giải đáp cho quý khách hàng.
Câu hỏi thường gặp
Tại Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về căn cứ không khởi tố vụ án hình sự như sau:
1. Không có sự việc phạm tội;
2. Hành vi không cấu thành tội phạm;
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
6. Tội phạm đã được đại xá;
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau:
1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.